Thứ Năm, 31 tháng 1, 2013

Nhận Thức Về Nhân Quả Và Nghiệp.



Đạo Phật là đạo nhân quả (nhân nào quả nấy) trên cơ sở lấy “Tâm” làm gốc và được ứng dụng vào trong cuộc sống.

Tâm còn gọi là nhận thức. Nhận thức dẫn đến hành động như thế nào thì sẽ cho kết quả tương ưng như thế đó dựa trên nền tảng luật “Nhân quả” tức là “Hiện tại là quả của quá khứ và làm nhân cho vị lai”. Thế nhưng, có lúc Đức Phật lại nói “kết quả hiện tại là do nghiệp lực dẫn dắt”. Vậy thì Nhân quả là sao? Nghiệp là như thế nào? Nhân quả và Nghiệp giống nhau hay khác nhau ?

Nhân quả có 2 loại:

-Nhân quả đồng thời là thế giới chuyển biến sát na của A Lại Da, thế giới biến dịch sinh tử, là sự vận hành tự nhiên trùng trùng duyên khởi vô lượng pháp trong vũ trụ còn gọi là pháp chấp.

-Nhân quả khác thời nương vào nhân quả đồng thời mà phát hiện, là thế giới chuyển biến chu kỳ của Mạt na, thế giới phần đoạn sinh tử. Nhận thức có: quá khứ - hiện tại - vị lai trải qua ba cõi. Nhân quả khác thời là hành động tự nhiên của thân căn sinh lý còn gọi là ngã chấp.

Nghiệp: trải qua tiến trình 5 uẩn, ý chí cải sửa nhân quả khác thời thành nghiệp ác hay thiện. Nghiệp có 3: thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp. Ý nghiệp là mấu chốt điều khiển thân-khẩu hành động tạo nghiệp.

Vậy, nhân quả đồng thời là căn bản làm nền tảng duyên khởi nhân quả khác thời để tạo ra nghiệp. Như vậy, trong nhân quả chưa có nghiệp, trong nghiệp đã hàm chứa nhân quả. Nhân quả khác thời và nghiệp giống nhau ở hành động của thân căn nhưng khác nhau vì nhân quả hành động tự nhiên còn nghiệp hành động có tác ý.

Đức Phật có nói: “nhân thân nan đắc” tức được thân người là khó. Trên thế giới, hiện nay có khoảng 6 tỷ người, nhưng không ai giống ai về hình dáng lẫn tính tình,..? Hình dáng có cao-thấp, mập-ốm, đẹp-xấu, trắng-đen, thân đầy đủ căn hay khuyết tật,…; Hoàn cảnh sung sướng thanh nhàn-vất vả lo toan, giàu sang-bần hàn, hạnh phúc-đau khổ,…; Sự hiểu biết sâu- cạn, thông minh-tối dạ, có học-thất học,…; Tính tình hiền-dữ, thật thà-ranh ma, tế nhị-thô lỗ, …các tôn giáo khác cho đó là “định mệnh”, nhưng Đạo Phật cho là “nhân-quả” của mỗi người tự tạo: quá khứ làm việc thiện thì hiện tại được hưởng những điều tốt đẹp, làm điều ác thì hiện tại nhận lãnh những điều xấu xa. Do đó “chính mình tự chịu trách nhiệm vận mệnh của mình”. Đức Phật có nói: “được làm người rất quý” vì con người có ý chí biết cải sửa nhân quả thành nghiệp, chuyển nghiệp ác thành thiện cho đến thuần thiện, nếu đủ duyên sẽ dứt nghiệp. Vậy, nếu hiểu rõ nhân quả, cách chuyển nghiệp và sẽ chuyển ngay trong hiện tại: cái quả hiện tại đang nhận chịu, mình có quyền dùng ý chí kinh nghiệm cải sửa “quả xấu thành quả tốt, quả tốt thành quả tốt hơn”, hoặc ngay trong nhân quả và nghiệp lặng lẽ thấy rõ mọi tiến trình diễn biến của nó thì “bất muội nhân quả và nghiệp mà phi nghiệp”.

Thông qua 15 hạng chúng sanh để phân tích nhân quả, nghiệp và cách chuyển nghiệp như thế nào, nhất là của người và trời Dục giới trong cuộc sống hiện tại.

Trước hết nói về nhân quả đồng thời: là thế giới sinh diệt sátna luôn vận hành tự nhiên trùng trùng duyên khởi ra vô lượng pháp trong vũ trụ, gom gọn là 15 hạng chúng sanh.

Nhân quả khác thời: là thế giới sinh diệt chu kỳ của mạtna, thế giới có thân căn sinh lý và trần cảnh vật lý đều là thức biến nên luôn thu hút giao thoa lẫn nhau để nhận thức phát hiện. Thân căn có ba tương ưng với ba trần cảnh để phát hiện ba thức: cõi Dục có thân căn phù trần giao thoa ngoại pháp phát hiện cái nhìn, cõi Sắc có thân căn tịnh sắc giao thoa nội pháp phát hiện cái thấy tức cảm giác, cõi Vô sắc có thân căn tịnh sắc vi tế giao thoa pháp trần phát hiện cái biết phân biệt. Nhân quả khác thời luôn diễn biến, nhưng chúng sanh trong ba cõi khó nhận biết.

*Cõi Dục giới: tạm chia có ba trường hợp nhân quả khác thời như sau:

1- Khi thân căn có nhu cầu sinh lý tự nhiên như: đi, đứng, nằm, ngồi,…thường hành

động bộc phát không ý thức, hành động này đôi khi dẫn đến thiệt hại cho chính bản thân (vập đầu, té ngã,…) hoặc cho đối tượng (đạp chết con vật, đổ bể đồ vật,…).

2- Khi thân căn đối xúc với trần cảnh phát sinh cảm giác dễ chịu hoặc khó chịu.

3- Khi thân căn có nhu cầu bồi dưỡng thì phát khởi dục vọng.

Ba nhân quả khác thời trên sẽ đưa đến những hành động:

Bốn đường ác: có thân căn sinh lý thuần phù trần, tâm si mê đến mức ý chí ẩn khuất, chỉ có cảm giác và phân biệt lờ mờ, luôn hành động theo dục vọng bản năng, thuần nhân quả khác thời. (1) Hành động tự nhiên theo nhu cầu, nếu có sự cố vẫn thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra. (2) Tâm quá ngu si nên vui-buồn xảy ra cứ nhận lờ mờ thế thôi. (3) Khi thân căn sinh lý có nhu cầu thì dục vọng khởi lên, lập tức hành động chiếm hữu ngoại pháp theo bản năng sinh tồn nhằm thỏa mãn thân căn. Tâm 4 đường ác được biểu hiện: Địa ngục tâm ù lỳ, Ngạ quỷ tâm tham lam, Súc sanh tâm sân giận, Atula tâm ganh tỵ thích gây sự.

Loài Người: có thân căn gồm phù trần và tịnh sắc, bắt đầu có ý chí, sống theo luân lý. Khi thân căn sinh lý có nhu cầu, dục vọng khởi lên, liền tác ý tập trung vào một giác quan cho căn-trần-thức đắm nhiễm thấy rõ sự vật và cảm giác, rồi tư tưởng phân biệt suy tính lên kế hoạch chiếm hữu, thuộc ý nghiệp; Ý chí sai thân-khẩu hành động chiếm hữu ngũ dục (sắc đẹp, tiền tài, danh lợi, ăn uống, ngủ nghỉ) thuộc thân nghiệp-khẩu nghiệp. Con người do mới tiến hóa nên tâm thức đứng giữa ranh giới ác và thiện, vì vậy môi trường sống rất quan trọng.

Trong môi trường không luân lý: dễ bị dục vọng chi phối mạnh, ý chí đồng hóa với tâm bốn đường ác và hành động tạo nghiệp theo bản năng, đôi lúc đối cảnh tâm thiện khởi lên, nhưng ý chí bị ngũ dục lôi cuốn chuyển thiện thành ác. (1) Do tạp niệm nên hành động thường không có ý thức, khi sự cố xảy ra, tập trung tư tưởng phân tích thấy rõ sự thiệt hại và bấy giờ “chỉ thấy lỗi người không thấy lỗi mình”, ý chí bị tâm ác đồng hóa lập tức sai thân khẩu đổ trút mọi lỗi lầm cho người khác, thậm chí còn làm gia tăng sự oán thù,…(2) Ý chí xui thân khẩu hành động quá trớn: vui thì nói cười ngặt nghẽo, buồn thì than khóc ủ ê (thiếu ý thức), hoặc xui thân hành động chiếm hữu ngoại sắc để lạc thú tăng trưởng mạnh như: xì ke, rượu chè, cờ bạc, dâm dục,…(ngạ quỷ) hoặc bực tức ganh tỵ với thành công của người khác (atula),…(3) “Chỉ nghĩ đến mình”. Sau khi tập trung căn-trần-thức thấy rõ sự vật, ý chí bị đồng hóa với dục vọng bản năng, lập tức xui giục thân khẩu hành động chiếm hữu ngũ dục nhằm thỏa mãn nhu cầu bản thân (ngạ quỷ, súc sanh, atula). Hiện tại cố ý cải sửa nhân quả chuyển thành nghiệp ác, sẽ nhận lãnh quả ác.

Trong môi trường có luân lý: ý chí chế ngự được dục vọng, thường hành động tạo nghiệp thiện, đôi lúc đối cảnh tâm ác khởi lên liền dùng ý chí chế ngự chuyển ác thành thiện.(1) Sau sự cố xảy ra, giật mình tỉnh thức biết xấu hỗ, ăn năn, hối lỗi, suy nghĩ tìm cách khắc phục làm giảm đi những thiệt hại do mình gây ra. (2) Sau khi tư tưởng phân biệt nguyên nhân vui-buồn để rồi ý chí chế ngự “không vui vui quá, không buồn buồn tênh”, vui cùng với niềm vui thành công của người khác hoặc chọn khổ làm niềm vui như xả thân cứu người trong hoàn cảnh nguy nan,…(3) Sau khi tập trung căn-trần-thức thấy rõ sự vật, tư tưởng suy nghĩ phân tích cách chiếm hữu ngũ dục phù hợp luân lý trước khi ý chí quyết định sai thân khẩu hành động mà không gay thiệt hại cho một ai, “nhường cơm xẻ áo” giúp người đồng cảnh ngộ, cơ hàn lỡ vận,…Hiện tại đôi khi đang nhận quả ác, nhưng luôn ý thức cải sửa nhân quả chuyển thành nghiệp thiện thì sẽ giảm nghiệp ác nhận được quả thiện.

Trời Dục giới: ngoài ý chí còn có học vị, kiến thức, kinh nghiệm,…tâm hướng thiện, luôn suy nghĩ chín chắn, phân tích, tổng hợp kỹ lưỡng trước khi ý chí quyết định hành động chiếm hữu ngũ dục cho phù hợp đạo lý, thuộc ý nghiệp. Sống “tri túc thiểu dục”, chọn luân lý làm thước đo trong cuộc sống, thuộc thân nghiệp-khẩu nghiệp. (1) Có ý thức trong hành động, thường ít xảy ra sự cố, nếu có thì nhanh chống khắc phục tốt. (2) Dùng ý chí, kiến thức, kinh

nghiệm,…thay đổi hoàn cảnh duy trì niềm vui thanh cao. (3) Chiếm hữu ngoại sắc đáp ứng nhu cầu thân căn sinh lý thanh cao hơn người, thường chọn món ăn tinh thần làm chính như dùng kiến thức, kinh nghiệm,…của mình cống hiến cho xã hội, cho nhân loại: Nhà bác học phát minh ra nhiều đề tài khoa học, sản xuất ra nhiều của cải vật chất giúp nhân loại tận hưởng sự an nhàn trong cuộc sống; Nhà giáo tận tâm đem hết kiến thức của mình hướng dẫn giảng dạy cho học sinh-sinh viên có một tri thức, đạo đức làm hành trang đi vào cuộc sống; Ngành y dược với lương tâm nghề nghiệp tận lực cứu chữa cho mọi người khỏi bệnh được thân thể khỏe mạnh; Nhà báo tâm trong sáng nhận định chuẩn xác đăng tải các thông tin giúp nhân dân nắm bắt kịp thời tình hình trong và ngoài nước, nêu gương “người tốt việc tốt” cho mọi người học tập góp phần củng cố cộng đồng xã hội đang xuống dốc về đạo đức,…; Nhà hảo tâm với tình thương tràn đầy sẵn sàng “bố thí, giúp đỡ” cho mọi người thoát khỏi cảnh đói nghèo; …Như vậy quả đã tốt nay cải sửa chuyển thành quả tốt hơn, sẽ tiến hóa lên cao hơn.

Nhưng, trong thời đại ngày nay, vật chất ngút trời, ngũ dục lung lạc ý chí, tư tưởng có sự so sánh rồi đăm ra nhàm chán với “đức hạnh tri túc thiểu dục”. Trước đây, nhà bác học, nhà giáo, nhà báo, bác sĩ, kỹ sư, nhà hảo tâm,…luôn có hoài bão học tốt với tâm huyết cống hiến hết đời mình vì sự nghiệp nhằm mục đích “mình vì mọi người”. Còn nay thì một số chuyển tâm huyết thành mục đích “mọi người vì mình”, mục tiêu phải đạt là “danh lợi-tiền tài” cho rằng “có danh lợi, tiền tài muốn gì cũng được”. Từ đó, kiến thức-kinh nghiệm,…đã bị thương mại hóa, trở thành món hàng trao đổi mua-bán miễn sao đạt lợi nhuận cao!?! Bốn đường ác hành động ác đã đành vì tâm thức quá u tối, còn trời Dục giới sống đạo lý, có phước báo, thông minh nhưng ý chí bị ngũ dục cám dỗ dẫn đến hành động sai lầm mà tự để mình sa lầy vào tội ác. Như vậy, đã có quả tốt nay cải sửa chuyển thành quả xấu ác, sẽ rơi xuống bốn đường ác. Thật đáng tiếc!!!

Cõi Dục, bốn đường ác tâm tán loạn quá si mê không hề biết nhân quả và nghiệp là gì, luôn hành động theo bản năng tức thuần nhân quả khác thời. Người-trời Dục giới dùng ý chí, kinh nghiệm, kiến thức,…cải sửa nhân quả khác thời tạo nghiệp, do tạp niệm nên không làm chủ được tâm tức không làm chủ được nghiệp, nên có lúc thiện có lúc ác và cứ quanh lộn mãi.

*Cõi trời Sắc giới: Qua thời gian tỉnh ngộ, tư tưởng nhàm chán, người-trời Dục giới quyết tâm bỏ ác hướng thiện, tu thiền định để làm chủ nghiệp, thăng hoa lên cõi Sắc.

Tìm nơi thanh tịnh, ý chí quyết định xui thân hành thiền, tập trung tư tưởng vào một đề mục ngoại pháp đã chọn, đây là ý nghiệp và thân nghiệp. Khi tập trung được liên tục đạt nhất niệm, chuyển nghiệp ác thành thiện, chuyển ngoại pháp thành nội pháp tức “ly dục sinh hỷ lạc”, đắc Sơ thiền. Khi nội pháp tiếp xúc thân tịnh sắc căn tạo sự rung động sinh cảm giác hỷ lạc, phát khởi dục vọng, đây là nhân quả khác thời. Tâm mong muốn chiếm hữu nội pháp để tận hưởng cảm giác, thuộc ý nghiệp; ý chí thúc giục thân nhập định, thuộc thân nghiệp. Khi đạt “định sanh hỷ lạc” đắc Nhị thiền. Tiếp tục định kỹ lâu đạt “ly hỷ diệu lạc” đắc Tam thiền.

Cõi Sắc, tu thiền định tâm nhất niệm, làm chủ được nghiệp, thấy được nhân quả khác thời cõi Dục. Dùng ý chí mạnh, kinh nghiệm, kiến thức dồi dào phối hợp với định cải sửa nhân quả khác thời của thọ chuyển thành nghiệp hoàn toàn thiện bởi nội pháp tự phát khởi từ nội tâm không tổn hại đến ai. Dùng định nhất niệm kéo dài thiện nghiệp.

*Cõi trời Vô sắc giới: Qua thời gian, Tam thiền nhận biết cách chuyển nghiệp chưa thuần thiện, dùng định lực kỹ lâu sâu thăng hoa lên Tứ thiền sắc giới.

Tứ thiền, trong thiền định, thấy được nhân quả cõi Dục, cõi Sắc. Khi thân căn sinh lý tịnh sắc vi tế tiếp xúc pháp trần có cái biết phân biệt, khởi dục vọng muốn hiện hữu, hình thành nhân quả khác thời. Sau trải nghiệm, biết rằng “an trú trong hiện tại” sẽ không còn dính mắc vào thân và cảm giác, Tâm mong muốn chiếm hữu pháp trần, thuộc ý nghiệp; Ý chí thúc giục thân nhập định kỹ lâu sâu để tận hưởng “hiện tại lạc trú” thuộc thân nghiệp, cải sửa nhân quả khác thời của tưởng thành thuần thiện nghiệp. Tiếp tục tập trung định lực hơn nữa thăng hoa lên Tứ Không chìm đắm vào “tịch tịnh trú”, dùng định lực “tiêu dung nhân quả khác thời

của sắc, thọ”, thấy được: “nhân quả khác thời”, “nhân quả đồng thời”, đỉnh cao “dường như tự tại không dính mắc vào nhân quả và nghiệp”. Ở đây chỉ có thuần ý nghiệp thiện rất vi tế.

Cõi Vô Sắc nhất niệm cao sâu, với ý chí mạnh mẽ, kinh nghiệm, kiến thức,…tuyệt vời tập trung định lực chìm đắm trong “hiện tại lạc trú” và “tịch tịnh trú” 24/24 giờ, thấy duyên khởi của các pháp tức thấy nhân quả, sống tự tại “gió bát phong không động tới” nên nghĩ rằng mình đã hoàn toàn “bất lạc nhân quả và dứt nghiệp”.

Thật ra, nhân quả là dòng chuyển biến sátna không ngừng nghỉ của vũ trụ nói chung và của thế giới chuyển biến chu kỳ nói riêng, như vậy không thể “bất lạc nhân quả” mà là “bất muội nhân quả”. Và chỉ có tâm “vô niệm” mới “bất muội nhân quả và phi nghiệp”. Tâm vô niệm tức là nhận lại Chân Tâm, rồi lặng lẽ như thật biết tiến trình hình thành nhân quả và ý chí tư tưởng chuyển nhân quả thành nghiệp diễn biến như thế nào nhận như thế nấy của bản thân gọi là “hiện tiền lạc trú”, khi tùy thuận thị hiện đến thấu đáo “nhân quả và nghiệp” của toàn thể chúng sanh trong vũ trụ gọi là “hiện pháp lạc trú”.

*Tứ Thánh:

-Nhập lưu: Khi tu tập được thức trong sáng, cơ duyên gặp Thiện tri thức khai ngộ buông xả mọi ý niệm, trở về Chân tâm rồi “lặng lẽ như dòng nước” nhìn thấy rõ ngay trong “sóng xác thân ngũ uẩn” tiến trình nhân quả của bốn đường ác hiện tiền diễn biến như thế nào nhận như thế nấy mà không cải sửa. Vì rõ biết nhân quả nên “bất muội nhân quả của bốn đường ác” và vĩnh viễn không có hành động ác. Còn người và trời Dục giới tưởng mình đắc Nhập lưu, nhưng thật ra hiện tại thoáng thấy đã vội vàng dùng ý chí, kinh nghiệm, kiến thức cải sửa nhân quả khác thời thành nghiệp theo luân lý, vì không rõ biết nên khi gặp trường hợp ngũ dục quá tải, rớt xuống bốn đường ác

-Nhất vãng lai: Tiếp tục trở về Chân tâm, lặng lẽ thấy rõ ngay trong xác thân ngũ uẩn tiến trình hình thành nhân quả và ý chí, kinh nghiệm cải sửa nhân quả chuyển thành nghiệp ác hoặc thiện của người-trời Dục giới hiện tiền diễn biến như thế nào nhận như thế nấy. Vì rõ biết nên “bất muội nhân quả về sắc và phi nghiệp của người-trời Dục giới”. Còn cõi Sắc tưởng mình đắc Nhất vãng lai, nhưng thật ra hiện tại thấy rõ đã vội dùng ý chí, kinh nghiệm, định lực đè nén chạy trốn nhân quả và chuyển nghiệp của người-trời Dục giới thăng hoa lên tầng trời cao hơn. An trú trong thiền định, thời gian nhàm chán, xuất định, nếu không tiến hóa thì thoái hóa hoặc gặp hoàn cảnh quá tải, ngũ dục lôi cuốn rớt xuống cõi Dục.

-Bất lai: Tiếp tục trở về Chân tâm, lặng lẽ biết rõ ngay trong xác thân ngũ uẩn tiến trình hình thành nhân quả và ý chí, kinh nghiệm phối hợp định cải sửa nhân quả chuyển thành nghiệp từ thiện sang thiện hơn của cõi Sắc hiện tiền diễn biến như thế nào nhận như thế nấy. Vì rõ biết nên “bất muội nhân quả về thọ và phi nghiệp của cõi Sắc”. Còn Tứ thiền sắc giới tưởng mình đắc Bất lai, nhưng thật ra thấy rõ cõi Sắc cải sửa nhân quả thành nghiệp rồi tập trung ý chí mạnh, kinh nghiệm tuyệt vời phối hợp định lực sâu an trú trong “hiện tại”, nhưng thời gian nhàm chán rồi xuất định, nếu gặp hoàn cảnh quá tải có thể bị rớt xuống cõi Dục.

-A la hán: Đã trở về an trụ Chân tâm, lặng lẽ như thật biết dòng chuyển biến nhân quả đồng thời duyên khởi nhân quả khác thời nên “bất muội nhân quả”. Nếu còn mang xác thân thì vẫn còn trả nghiệp cũ, nhưng các Ngài lặng lẽ như thật biết tiến trình ý chí, tư tưởng cải sửa nhân quả thành nghiệp diễn biến như thế nào nhận như thế nấy nên “nghiệp mà phi nghiệp”. Nếu các Ngài nhập “diệt thọ tưởng định”, trụ vào Chân không thì “phi nhân quả, phi nghiệp”. Còn Tứ Không tưởng mình đắc A la hán, nhưng thật ra, chú tâm chuyển nghiệp ngày càng thuần thiện, tư tưởng rất vi tế thấy rõ tiến trình duyên khởi Tứ thiền, lại an trú trong “tịch tịnh”. Nhưng rồi thời gian nhàm chán, xuất định, từ đỉnh cao tụt dóc xuống thấp, nếu chướng duyên có thể tụt đến tận cùng bốn đường ác.

Ba bậc Thánh đầu từng bước trở về Chân Tâm, lặng lẽ thấy rõ nên “bất muội nhân quả từng phần và dứt nghiệp từng loại chúng sanh”. Thánh Alahán tự độ đã xong, trở về an trú Chân Không nên “phi nhân quả và phi nghiệp” của chính mình.

*Ba bậc Tam Tôn

-Bích chi, Duyên giác: Tâm bất động, các Ngài hòa mình vào cuộc sống để tìm hiểu hoàn cảnh của chúng sanh mà luôn “bất muội nhân quả, nghiệp mà phi nghiệp”.

-Bồ tát Thánh: Phát bồ đề tâm cứu độ chúng sanh. Tâm luôn bất động, từ “phi nhân quả, phi nghiệp” mà từng bước tùy thuận “nhân quả và nghiệp” ứng hóa thân một chúng sanh đến nhiều chúng sanh, thị hiện trong một cõi đến nhiều cõi, để dần dần biết rõ nhân quả đồng thời của vũ trụ.

-Như lai: Tâm như như bất động, lập tức ứng hóa “nhân quả và nghiệp” để độ chúng sanh trong toàn thể pháp giới. Và, Như lai thấu suốt “nhân quả và nghiệp” toàn thể chúng sanh trong vũ trụ.

Vậy, ba bậc Tam Tôn với tâm đại từ đại bi, tùy thuận “nhân quả và nghiệp” ứng hóa nhiều thân chúng sanh, thị hiện trong nhiều cõi. Khi lập tức ứng hiện vô lương thân trong vô biên cõi thành Như lai thì mới thật sự “bất muội nhân quả của vũ trụ”.

Tóm lại, nhân quả đồng thời là dòng chuyển biến tự nhiên của vũ trụ làm nền tảng duyên khởi nhân quả khác thời. Tùy nhận thức của mỗi chúng sanh trong 3 cõi mà cải sửa nhân quả khác thời thành nghiệp thiện hoặc ác. Muốn chuyển nghiệp, mỗi chúng sanh cần thay đổi nhận thức ngay trong hiện tại, bởi “những gì ở quá khứ được cải sửa ngay hiện tại, những gì ở tương lai đều nằm ngay hạt giống hiện tại”. Bốn đường ác tâm tán loạn, chưa có ý chí nên không biết cải sửa. Người-trời Dục giới tâm tạp niệm, cải sửa nhân quả thành nghiệp khi thiện khi ác; Trời Sắc giới tâm nhất niệm, cải sửa nhân quả thành nghiệp thiện; Trời Vô sắc giới tâm nhất niệm sâu, chuyển nghiệp thiện sang thuần thiện. Tuy nhiên, do chưa hiểu rõ nhân quả và nghiệp nên đè nén đối trị chạy trốn để tiến hóa, nếu quá tải vẫn trở lại hành động tạo nghiệp ác. Để “tự cứu lấy mình” thì phải dứt nghiệp. Muốn dứt được nghiệp thì phải thấu đáo nhân quả và nghiệp. Khi tâm vô niệm, nhận lại Chân tâm, lặng lẽ thấy rõ tiến trình ngũ uẩn diễn biến như thế nào nhận như thế nấy tức thấy rõ trong nghiệp có nhân quả hoặc ngay trong hiện tại có cái hiện tiền. Ba bậc Thánh đầu, trên đường trở về Chân Tâm, từng bước “bất muội nhân quả và phi nghiệp” từ Địa ngục đến Tam thiền. Thánh Alahán an trụ Chân Tâm, còn xác thân thì “bất muội nhân quả, nghiệp mà phi nghiệp”, bỏ xác thân thì “phi nhân quả, phi nghiệp”. Ba bậc Tam Tôn “phi nhân quả, phi nghiệp” nhưng với lòng bi mẫn tùy thuận vào “hiện pháp” mà thị hiện “nhân quả và nghiệp” dài dài để độ chúng sanh.

Và, chỉ có Như Lai mới rốt ráo thấu suốt “nhân quả và nghiệp” của vô lượng chúng sanh trong toàn thể pháp giới vũ trụ.

Thí dụ nhân quả và nghiệp trên nền tảng là “Tâm”:

Thí dụ 1: Có lúc chân bước mà tâm nghĩ ngợi mông lung, vô ý đạp nhằm con vật gì đó trượt chân, xuýt té đây là hành động nhân quả (nhân là 2x2=4 là quả). Sau khi tập trung nhìn kỹ thấy con rắn mối đã bị đạp chết. Nếu tâm ác sẽ rủa chưởi “tại mày mà tao xuýt té, mày chết đáng đời”, từ nhân quả chuyển thành nghiệp ác, linh hồn nó oán thù, lúc này 2x2=50. Nếu tâm thiện sẽ cảm thấy hối hận, xin lỗi rồi đem chôn xác nó, từ nhân quả chuyển thành nghiệp thiện, lúc này 2x2=2. Còn nếu hiểu đạo tụng chú Vãng sanh và nguyện cầu linh hồn nó được vãng sanh, nó rất cám ơn, từ nhân quả chuyển thành nghiệp thiện, lúc này 2x2=0 mà có thêm phước báo.

Thí dụ 2: Hàng ngày có một ông lão ăn mày đi ăn xin qua các nhà có ông chủ rất giàu:

Ông 1: Miễn cưỡng bố thí vì sợ mất mặt trước quan khách đang dự tiệc, bố thí mà tiếc của.

Ông 2: Rất thương cảm, sẵn sàng bố thí không chỉ một lần mà thường xuyên liên tục.

Ông 3: Lặng lẽ bố thí với tâm “không có người cho, không có vật cho, không có người nhận”.

Ông 4: Bố thí vật chất còn bố thí pháp. Giải thích rõ cho ông ăn mày biết do tiền kiếp đã gây nghiệp ác hiện tại nhận quả xấu, rồi hướng dẫn cách tu tập chuyển nghiệp và chấm dứt nghiệp.

Vậy, ông lão ăn mày, hiện tại nhận quả ác từ quá khứ, nhưng không biết chuyển nghiệp. Ông chủ (1)(2) đã tạo nhiều nghiệp thiện, đủ duyên hiện tại hưởng phước báo nên tận hưởng sự giàu sang. Nhưng ông (1) tâm keo kiết, hiện tại chuyển thiện thành nhân ác; Ông (2) tâm thiện, hiện tại chuyển thiện càng thiện hơn. Ông (3) tâm “Tam luân không tịch”, đây là Thánh A la hán. Ông (4) tâm “đại từ đại bi”, đây là Bồ tát Thánh tùy thuận vào hiện tượng giới để cứu độ chúng sanh.

Nam Mô A Di Đà Phật Tác Đại Chứng Minh

KINH TỪ BI (chuyển thể văn xuôi)

Những ai muốn đạt tới an lạc thường nên học hạnh thẳng thắn, khiêm cung, biết xử dụng ngôn ngữ từ ái. Những kẻ ấy biết sống đơn giản mà hạnh phúc, nếp sống từ hòa, điềm đạm, ít ham muốn, không đua đòi theo đám đông. Những kẻ ấy sẽ không làm bất cứ một điều gì mà các bậc thức giả có thể chê cười. Và đây là điều họ luôn luôn tâm niệm:

Nguyện cho mọi người và mọi loài đươc sống trong an toàn và hạnh phúc, tâm tư hiền hậu và thảnh thơi. Nguyện cho tất cả các loài sinh vật trên trái đất đều được sống an lành, những loài yếu, những loài mạnh, những loài cao, những loài thấp, những loài lớn, những loài nhỏ, những loài ta có thể nhìn thấy, những loài ta không thể nhìn thấy, những loài ở gần, những loài ở xa, những loài đã sinh và những loài sắp sinh.

Nguyện cho đừng loài nào sát hại loài nào, đừng ai coi nhẹ tính mạng của ai, đừng ai vì giận hờn hoặc ác tâm mà mong cho ai bị đau khổ và khốn đốn.

Như một bà mẹ đang đem thân mạng mình che chở cho đứa con duy nhất, chúng ta hãy đem lòng từ bi mà đối xử với tất cả mọi loài.

Ta hãy đem lòng từ bi không giới hạn của ta mà bao trùm cả thế gian và muôn loài, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải, lòng từ bi không bị bất cứ gì làm ngăn cách, tâm ta không còn vương vấn một chút hờn oán hoặc căm thù. Bất cứ lúc nào, khi đi, khi đứng, khi ngồi, khi nằm, miễn là còn thức, ta nguyện duy trì trong ta chánh niệm từ bi. Nếp sống từ bi là nếp sống cao đẹp nhất.

Không lạc vào tà kiến, loại dần ham muốn, sống nếp sống lành mạnh và đạt thành trí giác, hành giả sẽ chắc chắn vượt thoát khỏi tử sinh.

(Thích Nhất Hạnh dịch)

Niệm phật phải nhất tâm



Chư thiên hữu! Hôm nay học Phật, chọn pháp môn niệm Phật cầu sanh Tây Phương, trước hết phải đầy đủ ba việc: tín, hạnh, nguyện. Trong Di Đà yếu giải có dạy rằng: “ chẳng có tín tâm thì không đủ nguyện lực, nguyện không tha thiết thì hạnh không chuyên cần; không chuyên cần niệm Phật đến nhất tâm thì tín, nguyện sẽ không viên thành”. Hôm nay, chúng ta nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tây Phương thì nhất định phải tinh chuyên thường niệm hàng ngày.

Bằng phương pháp nào để ta niệm Phật có kết quả mau chóng?! Niệm phật gồm có bốn cách: thật tướng niệm Phật, quán tưởng niệm Phật, quán tượng niệm Phật và trì danh niệm Phật. nhưng với thời mạt pháp hiện tại, chúng sanh phần nhiều chạy theo ngoại cảnh; pháp môn trì danh niệm Phật là hợp cơ hợp thời đối với mọi người. Trì danh niệm phật là pháp dễ thực hành cho mọi tầng lớp già trẻ, sang hèn…mau đạt thành kết quả dễ nhất tâm. Nhưng phải trì danh bằng cách nào? Hằng ngày ta thường xuyên niệm : “A Di Đà Phật” hoặc “ Nam Mô A Di Đà Phật” công đức đạt thành không gì khác nhau. Tại sao ta không niệm thêm nhiều danh hiệu của các đức Phật khác mà ta chỉ niệm riêng danh hiệu của Phật A Di Đà? Vì niệm nhiều danh hiệu thì tâm ta sẽ phân biệt và tán loạn, nếu chuyên tâm một danh hiệu của đức Phật thì ta dễ được nhất tâm hơn. Và, ta chỉ chuyên tâm niệm danh hiệu của Phật Di Đà là vì cõi Tây Phương Cực Lạc do thanh tịnh tâm của chúng hội Bồ Tát tạo thành; nên khi ta được sanh vào thì liền được vị bất thối đồng với chúng hội Bồ Tát khác; do công đức thù thắng này mà đức Thích Ca khuyên ta nên niệm danh hiệu Phật Di Đà để cầu sanh về cảnh Cực Lạc. Chư Tổ sư cũng dạy: “ chuyên tâm niệm Phật vạn người tu vạn người vãng sanh”.

Hôm nay, chúng ta niệm Phật sáu chữ hay bốn chữ không có gì khác nhau, nhưng điều chủ yếu là khi niệm mỗi chữ mỗi chữ phải rõ ràng, phải nhất tâm cung kính. Miệng niệm tai nghe, tâm suy nghĩ từng chữ từng câu cho thật rõ, cứ như vậy mà tiếp tục niệm, từ một câu cho đến ngàn vạn câu cũng đều rõ rang thông suốt trong tâm. Ngày nay niệm như vậy, ngày mai cũng niệm như vậy, năm này tháng nọ cũng niệm như vậy, năm tới tháng tới cũng niệm như vậy; cho đến mười năm, hai mươi năm, một trăm năm cũng tiếp tục niệm như vậy không gián đoạn, không thay đổi. Thường xuyên niệm như vậy, tâm không thay đổi mà bản rằng không được vãng sanh Tây Phương là điều không thể xảy ra.

Chúng ta niệm Phật giống như ăn cơm uống nước hằng ngày. Nếu một ngày ta không ăn không uống thì cơ thể tâm thần ta không được yên ổn. Cũng vậy, chúng ta niệm Phật đến khi nào nếu thỉnh thoảng bị quên không niệm mà cảm thấy thiếu thốn khó chịu như thiếu ăn thiếu uống thì đã có kết quả. Chúng sanh sanh vào thế giới dục giới này là do chúng ta ghiền ăn, ghiền uống, ghiền tình ái, ghiền tham dục phiền não… nay ta muốn cầu sanh Tây Phương thì phải cai những thứ bệnh ghiền của thế giới Ta Bà không hợp với chúng sanh Tây Phương; vì bệnh ghiền của chúng sanh Tây Phương là ghiền niệm Phật, nghe pháp.

Niệm Phật cầu sanh tây Phương không phải chỉ niệm một ngày hai ngày, mà phải chuyên cần thường xuyên niệm cho đến ngày lâm chung. Sau khi sanh về Tây Phương thấy Phật nghe pháp, tiến tu chứng được quả vị bất thối Bồ Tát ở nơi thường Tịch Quang Độ đồng với pháp thân Chư Phật. Bây giờ ta có thể ở trong thanh tịnh pháp thân mà thị hiện khắp mười phương thế giới để hoằng hóa cứu độ chúng sanh, trong đó có thế giới Ta Bà mà ta muốn đến. Đừng lo không duyên với thế giới Ta Bà mà hãy lo rằng tự ta niệm Phật không tinh chuyên đến chỗ nhứt tâm.

(Thượng Tọa Thích Phước Nhơn)

Học Phật Cần Phải Tu Giới, Ðịnh, Huệ


Thường dùng Giới Ðịnh Huệ để tự thức tỉnh, vì chúng giúp ích việc tu hành.
Giới, Ðịnh, Huệ là việc học vô lậu, người tu hành cần phải có đầy đủ.
Giới tuy có năm giới, thập giới, Bồ-tát giới v.v... nhưng cơ bản nhất là Ngũ-giới: Không sát sanh, không ăn trộm, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu. Trì giới thì không tạo tội.
Ðịnh là gì? Ðịnh tức là thiền định, nói rộng ra chút nữa có nghĩa là bất biến. Có kẻ tu hành đầy vọng tưởng. Hôm nay tu thiền, ngày mai nghe nói niệm Phật công đức to lớn, liền bỏ tham thiền mà niệm Phật. Sau vài ngày lại nghe nói trì chú là thù thắng bèn bỏ niệm Phật mà trì chú. Người như vậy, nay tu pháp môn này, mai tu pháp môn khác, kết quả chẳng tu thành cái gì. Lại còn có kẻ niệm Phật, niệm Bồ-tát một ngày niệm, mười ngày nghỉ, hoặc ngày nay niệm ngày mai nghỉ, đó đều gọi là không có định lực. Ðịnh lực đối với người tu hành rất là quan trọng; không có định lực, tu đạo đương nhiên thất bại. Thiếu định lực thì đạo tâm chẳng kiên cố, dễ dàng bị ảnh hưởng bên ngoài chi phối làm đọa lạc.
Tiếp đến là Huệ, tức là trí huệ. Làm người có kẻ thông minh, người ngu dốt. Vì sao có kẻ thông minh lại có người ngu độn? Ðấy là do nhân quả, nếu quá khứ tu hành niệm Phật thì đời nầy chắc chắn có được trí huệ; ngược lại chẳng trồng thiện căn thì trí huệ đương nhiên chẳng có.
Trong Sách Ðại-học nói:
Ðịnh nhi hậu năng Tịnh, Tịnh nhi hậu năng An, An nhi hậu năng Lư, Lư nhi hậu năng Ðắc.
Nghĩa là:
Có Ðịnh rồi mới Tịnh, Có Tịnh rồi mới An, Có An rồi mới Sáng, Có Sáng rồi mới Ðược.
Do đó có Ðịnh mới sinh được Huệ. Nếu chẳng có Ðịnh, tạp niệm đầy dẫy, vọng tưởng lăng xăng thì làm sao có thể thấy suốt đúng, sai, rõ ràng chân lý được.
Giới nghĩa là quy luật giúp mình đề phòng phạm tội. Khi chưa phạm tội, mình cần tu Ðạo, bí quyết tu đạo là ở định lực. Có định lực thì sinh trí huệ, từ đó mới có thể liễu đạo thành Phật. Nên Giới, Ðịnh, Huệ là điều kiện tất yếu mà người tu Ðạo phải có. Không trì giới thì có thể tạo tội nghiệp, thiếu định lực thì tu Ðạo không thành, không trí huệ thì ngu si vô trí.
Tôi khuyên các vị hãy lấy "Giới Ðịnh Huệ" ba chữ này khắc sâu vào lòng, thường đem ra tự cảnh tỉnh. Tôi tin rằng đối với việc tu, chúng giúp ích mình lắm.
Giảng ngày 18 tháng 6 năm 1958
---o0o---

Thứ Hai, 28 tháng 1, 2013

NIẾT BÀN LÀ GÌ

Trong quyển “Pháp giáo nhà Phật”, tôi đã có giải về Niết-bàn, gom góp tư liệu trong nhiều kinh sách. Về phần Niết-bàn trong sách này, tôi xin trình bày đôi chỗ cần thiết, chứ không trích dẫn các tư liệu nữa.

Niết-bàn, cảnh hoàn toàn sung sướng, an lạc đời đời, cảnh cao vời, cảnh tuyệt đích của người tu hành đắc đạo. Những nhà tu trì có công hạnh, tham thiền rất sâu về Tứ diệu đế, đủ tự giải thoát ra ngoài Tam giới, bèn chứng quả A-la-hán và đắc ngay Niết-bàn trong khi sanh tiền. Còn những ai đắc quả thứ ba, hoặc là người cố sức tưởng Phật lắm thì khi thác cũng đến cõi Niết-bàn, được gần chư Phật. Đức Thích-ca Mâu-ni từng giảng công đức cảnh Niết-bàn, những sự tốt đẹp, thanh tịnh nơi cõi Niết-bàn. Mấy ông thánh xưa đắc quả, cũng mặc tình thường cảnh Niết-bàn, thường nói ra với đại chúng. Đức Phật và thánh chúng đều nhận có Niết-bàn; các ngài hạnh đức đủ đầy, hoàn toàn trong sạch, thì các ngài đâu có nói sai. Vậy ta chớ có phân vân mà khi nói có lúc nói không, ta hãy tin lời của Phật thánh mà nhận rằng có một cái thế giới rất trong sạch dành riêng cho các bạn lành.

Những ai giữ mình tinh khiết, bỏ sự đời, chẳng màng công danh phú quí ở dương thế này, mà muốn qua cảnh tịnh của chư Phật thì thế nào cũng qua được. Xưa nay, biết bao người thành A-la-hán, đắc đạo, nhập Niết-bàn, số ấy nhiều hơn số cát cả trăm, cả ngàn sông Hằng!

Niết-bàn, ai cũng biết là cảnh tuyệt tốt, tuyệt lành; còn tả rõ ra thì không ai tả được. Chư Phật và chư thánh chỉ có nói sơ là nơi an lạc vô cùng mà thôi. Có chứng từ quả A-la-hán, bậc thứ tư sắp lên, mới thấu nỗi Niết-bàn, vì đó là những hạng đắc nhập Niết-bàn.

Song bậc A-la-hán chưa được Niết-bàn trọn vẹn. Trong những năm đầu mới truyền đạo, vì phương tiện Phật tạm dạy Tiểu thừa, ngài khuyên học trò cố sức giải thoát để chứng tới quả A-la-hán, nhập Niết-bàn. Nhiều vị đệ tử chuyên cần tu tập, tham thiền có tinh tấn, đắc quả A-la-hán. Có nhiều vị, khi thành A-la-hán, không muốn ở lại cõi trần. Các ngài mới tịch vào Niết-bàn.

Về sau, Phật mở rộng các pháp môn, giảng ra Đại thừa, Nhất thừa. Ngài khuyên chư vị A-la-hán chớ tham chấp lấy Niết-bàn của A-la-hán, và hãy mong cầu Niết-bàn của chư Phật. Ngài dạy rằng Niết-bàn của A-la-hán và Duyên giác là Niết-bàn tạm, một chỗ nghỉ ngơi của hạng người đã mỏi mệt sau khi cố sức tu hành. Ngài chỉ rõ cảnh Niết-bàn thật, Niết-bàn trọn vẹn ấy là Niết-bàn của chư Phật. Nghe theo ngài, chư đệ tử đắc A-la-hán không tham chấp Niết-bàn của A-la-hán, bèn hướng đến cảnh cao của Phật Như Lai sẽ hưởng Niết-bàn hoàn toàn của bậc Như Lai. Chư đệ tử ấy rất dõng mãnh, tin sâu lời Phật. Các ngài bèn tu hạnh Bồ-tát, các ngài vào thừa duy nhất tức là Phật thừa. Các ngài tự do, tự tại mà dạo khắp mười phương, ba cõi, tỷ như những gã trai tráng con nhà giàu nương mình trên cỗ xe đạp thắng bằng bò trắng to lớn, mà dạo chơi từ thành thị đến thôn quê, các ngài dùng mọi bề phương tiện hành đạo Bồ-tát, chờ ngày lên bậc Như Lai, Phật Thế Tôn. Vinh hạnh thay! Cao thượng thay! Công đức thay!

Trong bộ kinh “Diệu Pháp Liên Hoa” mà tôi đã dịch và xuất bản, nơi phẩm bảy, nhân phân biệt Niết-bàn, Phật có dạy một ví dụ, tôi xin tóm lược ra dưới đây:

“Thuở xưa, có một đoàn bộ hành đi qua một đám rừng kia để đến cù lao châu báu. Có một tay chủ đoàn dắt đường là người biết rõ nẻo đi. Trong khi băng ngang đám rừng sâu, bọn bộ hành đều mệt chán, uể oải, bèn đồng nhau than van và đòi trở lại. Người chủ đoàn định dùng phương tiện để đối phó với họ. Người hóa phép biến ra một cảnh thị tứ trước mặt đoàn buôn. Người chỉ rằng: ‘Kìa, tới chợ búa, chúng ta hãy vào đó mà nghỉ, rồi sẽ tính.’ Đoàn bộ hành thấy cảnh phồn hoa náo nhiệt, người lại kẻ qua, thiên hạ lăng xăng thì họ bằng lòng lắm. Họ vào đó, tắm rửa, ăn uống nghỉ ngơi, chơi bời. Đến chừng người chủ đoàn thấy cả bọn khỏe khoắn, tươi tỉnh, phấn chấn lại rồi, người bèn biến mất cảnh thị tứ đi. Và người nói rằng: ‘Hôm trước, ta dùng phép thần thông mà hóa ra cảnh đền đài cho các ngươi đỡ mệt. Chớ ở đây toàn là rừng rú mà thôi. Bây giờ các ngươi khỏe rồi, hãy cố sức đi tới nữa. Cù lao châu báu không xa.’ Rồi người dắt đoàn bộ hành ấy đi tới nơi tới chốn.

“Đoàn bộ hành kia, tức là mấy vị đệ tử vì mệt mỏi nên ưa chịu cảnh Niết-bàn của A-la-hán. Niết-bàn của A-la-hán có khác nào cảnh thị tứ ở giữa rừng. Tức là cảnh tạm. Còn hòn châu báu, mục đích của đoàn buôn, mới là cảnh Niết-bàn chân thật của chư Phật, mục đích của những người tu hành tinh tấn.”

Theo Đại thừa, người ta không tham chấp Niết-bàn của A-la-hán mà hướng đến Niết-bàn của chư Phật. Cho nên các ngài thực hành đạo hạnh Bồ-tát trong bao nhiêu đời chẳng kể, thường từ bi bố thí, thí tài vật, thí thân mạng, thí pháp lý. Các ngài chuyên cần giữ tịnh giới, khổ hạnh đúng mức, xả thân vì chúng sanh, nhẫn nhục vô cùng, chịu sỉ ố, thóa mạ, đánh đập, chịu lao tù, chịu oan ức, và cam lãnh các tai ương nạn ách để hóa độ chúng sanh. Các ngài tinh tấn hết sức, chẳng hề giải đãi bỏ nẻo lành. Các ngài hằng suy xét, thiền định, nhập phép Tam-muội bất động, hàng trăm năm ngồi yên một chỗ, cho đến chim chóc làm tổ trên đầu, cây cối bao phủ trên mình. Các ngài tu đắc trí huệ vô cùng vô tận, trí huệ thông suốt, minh mẫn hơn hết. Như vậy đặng cầu quả Phật vì chúng sanh.

Những bậc ấy rất từ tâm. Các ngài cao thượng cho đến không màng nhập cảnh Niết-bàn, không đành vui hưởng nơi ấy. Cho nên thường giáng thế, hóa thân trong các hạng chúng sanh đặng tùy tiện mà độ họ quay về nẻo lành. Các ngài du hành đến các nơi, đi lại các cảnh giới, tiếp dẫn và cứu vớt những người có căn lành cội phúc trong cơn nguy khốn. Các ngài còn đi giải thoát cho những kẻ sám hối, ăn năn, mong nhờ sức từ bi của Phật.

Chúng ta đây, người học Phật, sao chúng ta lại không làm theo các ngài? Không nhiều cũng ít, ta hãy giữ lấy đức hạnh cứu giúp chúng sanh, đỡ khổ cho đời. Ít ra ta cũng tìm dịp mà hộ trợ những kẻ đồng loại, đồng bào. Hay là sẵn lòng giúp đỡ những kẻ quanh ta, tùy theo sức của ta. Không nữa, ta cũng tiếp tay cho những người đồng đạo thọ trì pháp Phật như ta. Những ai ăn ở có hạnh và ra công với đời thì càng gần với cõi lành, Niết-bàn, cảnh Phật. Những hạng tạo ơn tác phước với đời, dẫu không mong cầu, cũng sẽ hưởng được cảnh phước lành, cảnh an lạc nơi thiên thượng.

Ở ngay cõi này, các ngài đã hòa nhã, thanh tịnh, an lạc rồi. Thì đối với các ngài, cõi này cũng là cõi tiên, cõi thánh, cõi Phật. Lại nữa, các ngài vì giúp đời mà sống, vì thương người xót vật mà sống, cố sức mà khuyên lơn, an ủi, khuyến khích, để cho chúng sanh ở cõi này trở nên thuần hậu, thảo thuận, thì đối với các ngài cảnh trần thế có khác gì cảnh Niết-bàn đâu?

Thật ra, nếu biết suy xét kỹ, cảnh trần thế cũng là cảnh Niết-bàn đó. Lắm người tuy sống giữa nhân gian, mà tạo ra được một cái cảnh ngộ thuần lạc, một bầu thế giới thanh bai, một cảnh xã hội giao tế êm đềm, nhã nhặn. Trong lòng tưởng Phật, niệm Phật, họ giao tiếp với những người hiền lương trung hiếu, họ đi lại với những người sống trong vòng hào quang của Phật, ăn ở với bà con phải thế, đối xử với chúng bạn nhu hòa; há không phải họ ở vào cảnh trong sạch đáng yêu sao?

Lắm người tin ở sức lành của mình, hòa cái sức lành ấy với tấm lòng từ bi của Phật, bèn đứng ra mà giúp người độ thế, đưa chúng sanh lên đường phong hóa, đạo đức; như vậy họ không phải thấy ra là một cảnh thuần túy đáng thích sao?

Lắm người tưởng nhớ Phật, chắc ý vào sự tiếp dẫn của đức A-di-đà, bèn vui vẻ, tỉnh táo mà sống đời. Trong sạch trong sự giao tiếp, hằng bố đức cho người mà chính mình không tạo ra nợ nần, không thiếu hụt ai, không để ai phiền trách; trong khi tươi tỉnh mà chờ ngày cuối cùng để về cảnh Phật, họ không phải tạm ở vào cảnh nhàn lạc đáng kính sao?

Lắm người phong lưu nhàn hạ, nhà cửa thì rộng mở rước mời, mà bước chân vào toàn là kẻ xuất gia mến đạo, người cư sĩ thâm nghiêm, hay là kẻ hiền lành tích đức, như vậy há không phải là họ ở vào cảnh sung sướng khoái lạc hay sao?

Những hạng người như vậy tuy ở đời này, mà cũng như ở cảnh Niết-bàn rồi vậy. Quanh mình toàn là người trì kinh, niệm Phật, gần mình toàn là người giữ gìn phong hóa đạo hạnh, mình tạo ra được một cái xã hội lành, quý biết bao!

Những ai ở đời này mà vững lòng, chắc ý, hiểu mình, tin Phật, ắt là không xa cảnh Niết-bàn vậy.

Cái Kén Bướm

Chàng trai nọ tìm thấy một cái kiến bướm. Một hôm anh thấy cái kén hé một cái lỗ nhỏ. Anh ta ngồi hàng giờ nhìn chú bướm nhỏ cố thoát mình ra khỏi cái lỗ nhỏ xíu. Đã hàng mấy tiếng đồng hồ rồi mà cũng không tiến triển gì thêm. Hình như chú bướm không thể cố gắng hơn được nữa.

Anh nghĩ khi con nhộng chui ra được khỏi cái kén chật hẹp của mình, nó sẽ tung bay vào bầu trời xanh rộng bao la đầy hoa và nắng ấm. Và đây là giây phút hạnh phúc nhất trong cuộc đời của nó. Vì thế, anh ta quyết định giúp chú bướm nhỏ. Anh ta lấy kéo rạch cho cái lỗ to thêm.
Chú bướm dễ dàng thoát ra khỏi cái kén. Nhưng nó chỉ là một thân nhộng trần trụi với đôi cánh nhăn nhúm và khô héo như chiếc lá cháy sém dưới sức nóng của ánh mặt trời. Còn chàng thanh niên thì cứ ngồi quan sát cái kén với hy vọng một lúc nào đó thân mình chú bướm sẽ xẹp lại và đôi cánh xòe rộng hơn đủ để nâng đỡ thân hình chú.
Nhưng chẳng có gì thay đổi cả! Sự thật là chú bướm đã phải bò loanh hoanh suốt quãng đời còn lại với đôi cánh nhăng nhúm và thân hình sưng phồng. Nó chẳng bao giờ có thể bay được. Có một điều mà người thanh niên không thể hiểu : cái kén chật chội khiến chú bướm phỉa nỗ lực mới chui qua được cái lỗ nhỏ xíu kia là qui luật tự nhiên, khi đó cơ thể nó sẽ tiết ra một loại dịch nhờn và bơm vào đôi cánh của nó để đôi cánh sẽ lớn dần lên và chú bướm có thể tung bay vào bầu trời xanh bao la ngay khi nó rời hẳn cái kén.
Đôi khi đấu tranh là rất cần thiết trong cuộc sống. Nếu ta quen sống một một cuộc đời phẳng lặng, ta sẽ mất đi sức mạnh tiềm tang mà bẩm sinh mỗi người đều có. Và chẳng bao giờ ta có thể bay được. Vì thế, nếu bạn thấy mình đang vượt qua nhiều áp lực và căng thẳng thì hãy tin rằng sau đó bạn sẽ trưởng thành hơn.

Nếu chúng ta xin sức mạnh, cuộc sống sẽ gởi đến cho chúng ta những gian truân để làm chúng ta mạnh mẽ lên.
Nếu chúng ta xin sự khôn ngoan, cuộc sống sẽ gởi đến cho chúng ta phán đoán và giải quyết.
Nếu chúng ta xin sự thịnh vượng cuộc sống sẽ gởi đến chúng ta một khối óc và sức mạnh của cơ bắp để làm việc.
Nếu chúng ta xin lòng can đảm, cuộc sống sẽ gởi đến cho chúng ta những hiểm nguy để chúng ta vượt qua.
Nếu chúng ta xin tình yêu, cuộc sống sẽ gởi đến cho chúng ta những người đang gặp hoạn nạn để chúng ta giúp đỡ.
Nếu chúng ta xin sự giúp đỡ, cuộc sống sẽ gởi đến chúng ta những cơ hội. Chúng ta thường không nhận được những gì mình muốn nhưng lại nhận được mọi thứ mình cần.

Kinh phúc đức

Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).

Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ. Ở đây, chúng tôi xin trình bày tóm tắt sơ lược nội dung bài kinh.
Evam me sutam:
Ekam samayam Bhagavā
Sāvatthiyam viharati Jetavane
Anāthapindikassa ārāme. Tôi được nghe như vầy:
Một thời Đức Thế Tôn
Gần nơi thành Xá vệ,
Tại Kỳ viên tinh xá
Của ngài Cấp-Cô-Độc.

Atha kho aññatarā devatā
abhikkantāya rattiyā
abhikkantavannā
kevalakappam Jetavanam obhāsetvā
yena Bhagavā tenupasankami
upasankamitvā
Bhagavantam abhivādetvā
ekamantam atthāsi. Vào hạ tuần canh đêm,
Vị thiên tử hiện ra,
Với hào quang rực rỡ,
Chiếu sáng cả Kỳ viên,
Đến nơi Đức Phật ngự,
Đảnh lễ Đức Thế Tôn,
Rồi đứng sang một bên.

Ekamantam thitā kho sā devatā
Bhagavantam gāthāya ajjabhāsi: Sau khi đã đứng yên,
Vị ấy bạch Thế Tôn,
Bằng lời kệ như sau:

Bahū devā manussā ca,
Mangalāni acintayum,
Ākankhamānā sotthānam,
Brūhi mangalam uttamam. Chư thiên nhân thao thức,
Muốn biết về điềm lành,
Ðể sống đời an lạc,
Xin Thế Tôn chỉ dạy.

(Đức Phật trả lời:)
Asevanā ca bālānam,
Panditānañca sevanā,
Pūjā ca pūjanīyānam,
Etam mangalam uttamam. Không gần kẻ ngu si,
Thân cận người hiền trí,
Cúng dường bậc xứng đáng,
Là điềm lành tối thượng

Đầu tiên là 3 điềm lành: tránh xa kẻ ngu (bāla), thân cận người hiền trí, thiện tri thức (pandita), cúng dường (pūjā) những bậc xứng đáng để được cúng dường. Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Người ngu ở đây là người không biết phân biệt thiện ác và có khuynh hướng theo các điều xấu ác. Bậc trí hiền là những người có đạo đức, tinh cần học và hành trong giáo pháp. Tôn kính và dâng tặng phẩm vật đến các bậc tôn túc, phẩm hạnh thanh cao là một điều quý nên làm.
Patirūpadesavāso ca,
Pubbe ca katapuññatā,
Attasammāpanidhi ca,
Etam mangalam uttamam. Ở trú xứ thích hợp,
Quá khứ tạo nhân lành,
Hướng tâm theo lẽ chánh,
Là điềm lành tối thượng

Có 3 điềm lành:

- Trú xứ (desa) thích hợp (patirūpa) là những nơi có môi trường văn hóa xã hội tốt cho sự tu tập. Ở bầu thì dài, ở ống thì tròn. Chúng ta thường bị tác động bởi hoàn cảnh xã hội. Ở những nơi chỉ chuộng hình thức hào nhoáng bên ngoài, hưởng thụ vật chất, chạy theo nhu cầu dục lạc, lễ nghi rườm rà, chuộng các lời hoa mỹ rỗng tuếch thì cũng khó tu tập.

- Nếu trong quá khứ của đời này, hay trong các đời trước, đã tạo các công đức (katapuññatā), nay, quả phước lành sẽ được gặt hái trong hiện tại. Đây là một điềm lành. Bằng không, hãy nỗ lực làm việc thiện, để tạo nhân lành cho tương lai.

- Một điềm lành khác là tâm ta có định hướng chân chánh, đúng đắn (sammāpanidhi), hiệp theo lẽ đạo. Đây là điều quan trọng, phải có tác ý đúng.
Bāhu-saccañca sippañca,
Vinayo ca susikkhito,
Subhāsitā ca yā vācā,
Etam mangalam uttamam. Học nhiều, nghề nghiệp giỏi,
Giới luật biết tu tập,
Có những lời khéo nói,
Là điềm lành tối thượng

Có 4 điềm lành ở đây: được học và có nhiều hiểu biết (bāhu-saccam) , có nghề nghiệp tốt (sippam), biết hành trì các nguyên tắc giới luật đạo đức (vinayo), và biết dùng ngôn từ hòa ái, chân thật.
Mātāpitu upatthānam,
Puttadārassa sangaho,
Anākulā ca kammatā,
Etam mangalam uttamam. Hiếu dưỡng mẹ và cha,
Biết nuôi nấng vợ con.
Việc làm không xung khắc,
Là điềm lành tối thượng

Có 3 điềm lành: phụng dưỡng cha mẹ (mātāpitu), nuôi nấng gia đình (puttadārassa), có công việc làm không gây xung đột (anākulā) với người khác.
Dānañca dhammacariyā ca,
Ñātakānañca sangaho,
Anavajjāni kammāni,
Etam mangalam uttamam. Bố thí, hành đúng pháp,
Giúp quyến thuộc họ hàng,
Hành xử không tỳ vết,
Là điềm lành tối thượng

Có 4 điềm lành: có lòng bố thí rộng rãi (dānā), có phẩm hạnh trong sạch theo giáo pháp (dhammacariyā), biết giúp đỡ bà con họ hàng (ñātakā), có những hành động giao tiếp trong sạch, không bị chê trách (anavajjā).
Āratī viratī pāpā,
Majjapānā ca saññamo,
Appamādo ca dhammesu,
Etam mangalam uttamam. Ghê sợ, tránh điều ác
Không nghiện ngập rượu chè,
Tinh tấn hành thiện pháp,
Là điềm lành tối thượng

Có 4 điềm lành: biết ghê sợ (āratī) tội lỗi, biết tránh xa (viratī) tội lỗi (viratī pāpā), không rượu chè say sưa làm u mê (majjapānā), tinh tấn (appamādo) làm các điều lành, thiện pháp (dhammesu).
Gāravo ca nivāto ca,
Santutthī ca kataññutā,
Kālena dhammassavanam,
Etam mangalam uttamam. Sống lễ độ, khiêm cung,
Tri túc và tri ân,
Đúng thời, nghe giảng Pháp,
Là điềm lành tối thượng.

Có 5 điềm lành: thái độ lễ phép có văn hóa (gāravo), tính khiêm hạ (nivāto), biết sống đủ, tri túc (santutthī), biết nhớ ơn, tri ân (kataññutā), và biết đến nghe Pháp (dhammassavanam) đúng thời, đúng lúc (kālena).

Khantī ca sovacassatā,
Samanānañca dassanam,
Kālena dhammasākacchā,
Etam mangalam uttamam. Kham nhẫn, biết phục thiện,
Thường đến gặp Sa-môn,
Ðúng thời, đàm luận Pháp,
Là điềm lành tối thượng


Có 4 điềm lành: biết kiên nhẫn (khantī) và chịu đựng, biết phục thiện dễ dạy (sovacassatā), thường thân cận các bậc tu hành (samana), và đàm luận, trao đổi học Pháp (dhammasākacchā).



Tapo ca brahmacariyañca,
Ariyasaccāna dassanam,
Nibbāna sacchikiriyā ca,
Etam mangalam uttamam. Tự chế, sống phạm hạnh,
Thấy chân lý nhiệm mầu.
Thực chứng quả Niết Bàn
Là điềm lành tối thượng

Có 4 điềm lành: sống tinh cần tự chế (tapo), sống đời sống phạm hạnh (brahmacariya), thẩm thấu chân lý nhiệm mầu (ariyasaccā) – tức là Tứ thánh đế, thực chứng Niết bàn (nibbāna sacchikiriyā)
Phutthassa lokadhammehi,
Cittam yassa na kampati,
Asokam virajam khemam,
Etam mangalam uttamam. Khi xúc chạm việc đời,
Tâm không động, không sầu,
An nhiên, không uế não,
Là điềm lành tối thượng

Có 4 điềm lành: Tâm bất động, không lay chuyển khi bị gió đời hay pháp thế gian (lokadhamma) – khen chê, được mất, vinh nhục, buồn vui – thổi đến. Ba điềm lành khác: không còn sầu não (asoka), sống an nhiên (khema), không còn uế nhiễm (virajam).

Etādisāni katvāna,
Sabbatthamaparājitā,
Sabbattha sotthim gacchanti,
Tantesam mangalam uttaman’ti. Ai sống được như thế,
Đến đâu không thối thất,
Đến đâu cũng an toàn,
Những điềm lành tối thượng.

Được như thế là đã nhập dòng thánh giải thoát. Khi ấy, cho dù sống trong dòng đời, đi đến đâu cũng không bao giờ bị tham sân si đánh bại (sabbattha aparājitā), đi đến đâu cũng bình an tự tại, an toàn (sabbattha sotthim gacchanti). Đó là điềm lành cao quý nhất.

*

Trong 11 câu kệ trên, Đức Phật đã đưa ra một bản hướng dẫn tổng quát cho người cư sĩ Phật tử, như là một cẩm nang tu học. Đầu tiên, người ấy phải biết tránh xa người ngu ác, chỉ biết chạy theo cám dỗ của ngũ dục. Phải biết thân cận bậc thiện tri thức để học hỏi, phải biết cung kính bậc tôn kính. Người ấy phải biết chọn nơi thích hợp để sinh sống, và biết tạo nhân lành để có phước báu tương lai. Phải biết hướng tâm theo đường chánh, học rộng và có tay nghề giỏi, có việc làm không gây tranh chấp, xung đột với người khác.

Trong gia đình, người ấy phải biết phụng dưỡng cha mẹ, nuôi nấng vợ con, giúp đỡ quyến thuộc. Người ấy phải có lòng bố thí rộng rãi, tinh tấn giữ giới, không nghiện ngập say sưa, biết ghê sợ và tránh xa các điều tội lỗi. Người ấy có những hành động thiện lành, không bị chê cười, có những lời nói khéo léo, hòa ái.

Trong tiến trình tu học, người ấy phải biết lễ độ, khiêm tốn, không cống cao ngã mạn. Phải biết sống tri túc và lúc nào cũng có lòng biết ơn những người đã giúp, đã chỉ dạy mình. Người ấy phải sẵn sàng nghe và sửa đổi tâm tánh mình. Lúc nào cũng tinh tấn học và hành theo giáo pháp, gần gũi các bậc tu hành có đức hạnh cao quý.

Sống tự chế, tỉnh giác, có giới đức tốt, người ấy nổ lực để thấu đạt và thực chứng chân lý nhiệm mầu – tức là Tứ Diệu Đế, để nhập dòng thánh giải thoát, chứng đắc Niết bàn. Nếu được như thế, người ấy sống an nhiên tự tại, không xao động bởi các pháp thế gian. Đi đến đâu cũng an vui, ở nơi nào cũng không bao giờ bị tham sân si áp chế. Đó là phước lành cao thượng nhất trên đời.

Theo lời ngài Hòa thượng Narada trong quyển "Đức Phật và Phật Pháp":

Bài kinh nổi tiếng nầy, thường được trì tụng trong các nước Phật Giáo, là một bài tóm tắt minh bạch và đầy đủ các điều luân lý của đạo Phật, cho cá nhân và xã hội. Ba mươi tám điều phước đức trong bài đó là một hướng dẫn thiết yếu cho đường đời. Bắt đầu là "lánh xa kẻ xấu ác" vốn căn bản cho các tiến bộ luân lý và tâm linh, những điều Phước Ðức đưa đến thành tựu một tâm ý vô tham, vô úy an nhiên. Hành trì theo các lời dạy trong bài kệ là một con đường chắc chắn đưa đến đời sống hài hòa và tiến bộ của cá nhân cũng như của xã hội, quốc gia, và nhân loại.

Bình Anson
Perth, Tây Úc
tháng 08-2011

Ba bài Pháp đầu tiên của Đức Phật

KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN
Dhammacakkappavattana Sutta (SN 56.11)

1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Bàrànasi, tại Isipatana, chỗ Vườn Nai.
2) Tại đấy, Thế Tôn bảo chúng năm Tỳ-khưu:
-- Có hai cực đoan này, này các Tỳ-khưu, một người xuất gia không nên thực hành theo. Thế nào là hai?
3) Một là đắm say trong các dục (kàmesu), hạ liệt, đê tiện, phàm phu, không xứng bậc Thánh, không liên hệ đến mục đích. Hai là tự hành khổ mình, khổ đau, không xứng bậc Thánh, không liên hệ đến mục đích. Tránh xa hai cực đoan này, này các Tỳ-khưu, là con đường Trung đạo, do Như Lai chánh giác, tác thành mắt, tác thành trí, đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.
4) Và thế nào là con đường Trung đạo, này các Tỳ-khưu, do Như Lai chánh giác, tác thành mắt, tác thành trí, đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn? Chính là con đường Thánh đạo Tám ngành, tức là: chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Ðây là con đường trung đạo, này các Tỳ-khưu, do Như Lai chánh giác, tác thành mắt, tác thành trí, đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.
*
5) Ðây là Thánh đế về Khổ, này các Tỳ-khưu. Sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu, bi, khổ, ưu, não là khổ, oán gặp nhau là khổ, ái biệt ly là khổ, cầu không được là khổ. Tóm lại, năm thủ uẩn là khổ.
6) Ðây là Thánh đế về Khổ tập, này các Tỳ-khưu, chính là ái này đưa đến tái sinh, câu hữu với hỷ và tham, tìm cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia. Tức là dục ái, hữu ái, phi hữu ái.
7) Ðây là Thánh đế về Khổ diệt, này các Tỳ-khưu, chính là ly tham, đoạn diệt, không có dư tàn khát ái ấy, sự quăng bỏ, từ bỏ, giải thoát, không có chấp trước.
8) Ðây là Thánh đế về Con Ðường đưa đến Khổ diệt, này các Tỳ-khưu, chính là con đường Thánh đạo Tám ngành, tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
*
9) Ðây là Thánh đế về Khổ, này các Tỳ-khưu, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sinh, trí sinh, tuệ sinh, minh sinh, quang sinh. Ðây là Thánh đế về Khổ cần phải liễu tri, này các Tỳ-khưu, đối với các pháp, từ trước Ta chưa từng nghe, nhãn sinh, trí sinh, tuệ sinh, minh sinh, quang sinh. Ðây là Thánh đế về Khổ đã được liễu tri, này các Tỳ-khưu, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sinh, trí sinh, tuệ sinh, minh sinh, quang sinh.
10) Ðây là Thánh đế về Khổ tập, này các Tỳ-khưu, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sinh, trí sinh, tuệ sinh, minh sinh, quang sinh. Ðây là Thánh đế về Khổ tập cần phải đoạn tận, này các Tỳ-khưu, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sinh, trí sinh, tuệ sinh, minh sinh, quang sinh. Ðây là Thánh đế về Khổ tập đã được đoạn tận, này các Tỳ-khưu, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sinh, trí sinh, tuệ sinh, minh sinh, quang sinh.
11) Ðây là Thánh đế về Khổ diệt, này các Tỳ-khưu, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sinh, trí sinh, tuệ sinh, minh sinh, quang sinh. Ðây là Thánh đế về Khổ diệt cần phải chứng ngộ, này các Tỳ-khưu, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sinh, trí sinh, tuệ sinh, minh sinh, quang sinh. Ðây là Thánh đế về Khổ diệt đã được chứng ngộ, này các Tỳ-khưu, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sinh, trí sinh, tuệ sinh, minh sinh, quang sinh.
12) Ðây là Thánh đế về Con Ðường đưa đến khổ diệt, này các Tỳ-khưu, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sinh, trí sinh, tuệ sinh, minh sinh, quang sinh. Ðây là Thánh đế về Con Ðường đưa đến Khổ diệt cần phải tu tập, này các Tỳ-khưu, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sinh, trí sinh, tuệ sinh, minh sinh, quang sinh. Ðây là Thánh đế về Con Ðường đưa đến Khổ diệt đã được tu tập, này các Tỳ-khưu, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sinh, trí sinh, tuệ sinh, minh sinh, quang sinh.
*
13) Cho đến khi nào, này các Tỳ-khưu, trong bốn Thánh đế này, với ba chuyển và mười hai hành tướng như vậy, tri kiến như thật không khéo thanh tịnh ở nơi Ta; thời này các Tỳ-khưu, cho đến khi ấy, trong thế giới này với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, Ta không chứng tri đã chánh giác vô thượng Chánh Ðẳng Giác.
14) Và cho đến khi nào, này các Tỳ-khưu, trong bốn Thánh đến này, với ba chuyển và mười hai hành tướng như vậy, tri kiến như thật đã được khéo thanh tịnh ở nơi Ta; cho đến khi ấy, này các Tỳ-khưu, trong thế giới này với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, Ta mới chứng tri đã chánh giác vô thượng Chánh Ðẳng Giác. Tri kiến khởi lên nơi Ta: "Bất động là tâm giải thoát của Ta. Ðây là đời sống cuối cùng, nay không còn tái sinh nữa".
*
15) Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Chúng năm Tỳ-khưu hoan hỷ, tín thọ lời Phật dạy. Trong khi lời dạy này được tuyên bố, Tôn giả Kondanna khởi lên pháp nhãn thanh tịnh, không cấu uế như sau: "Phàm vật gì được tập khởi, tất cả pháp ấy cũng bị đoạn diệt".
16) Và khi Pháp luân này được Thế Tôn chuyển vận như vậy, chư Thiên cõi đất này lớn tiếng nói lên: "Nay vô thượng Pháp luân này được Thế Tôn ở Ba-la-nại, chỗ chư Tiên đọa xứ, tại Vườn Nai, chuyển vận một Pháp luân chưa từng được ai chuyển vận, Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên, Ma vương, Phạm thiên, hay bất cứ một ai ở đời".
17) Sau khi được nghe tiếng chư Thiên ở cõi đất, Tứ đại Thiên vương thiên lên tiếng nói lên: "Nay vô thượng Pháp luân này được Thế Tôn ở Ba-la-nại, chỗ chư Tiên đọa xứ, tại Vườn Nai, chuyển vận một Pháp luân chưa từng được ai chuyển vận, Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên, Ma vương, Phạm thiên hay bất cứ một ai ở đời".
18) Sau khi được nghe tiếng của chư Thiên ở Tứ đại Thiên vương thiên, thời chư Thiên ở cõi trời Ba mươi ba, chư Thiên Yàmà (Dạ-ma), chư Thiên Tusità (Đâu-suất-đà), chư Hóa lạc thiên, chư Tha hóa tự tại thiên, chư Thiên ở Phạm thiên giới lớn tiếng nói lên: "Nay vô thượng Pháp luân này được Thế Tôn ở Ba-la-nại, chỗ chư Tiên đọa xứ, tại Vườn Nai, chuyển vận một Pháp luân chưa từng được ai chuyển vận, Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên, Ma vương, Phạm thiên hay bất cứ một ai ở đời".
19) Như vậy, trong sát-na ấy, trong khoảnh khắc ấy, trong giây phút ấy, tiếng ấy lên đến Phạm thiên giới. Và mười ngàn thế giới chuyển động, rung động, chuyển động mạnh. Và một hào quang vô lượng, quảng đại phát chiếu ra ở đời, vượt quá uy lực chư Thiên.
20) Rồi Thế Tôn thốt lên lời cảm hứng sau đây: "Chắc chắn đã giác hiểu là Kondanna (Kiều-trần-như)! Chắc chắn đã giác hiểu là Kondanna!"
Như vậy Tôn giả Kondanna được tên là Annàta Kondanna (A-nhã Kiều-trần-như -- Kiều-trần-như người đã giác hiểu).

KINH VÔ NGÃ TƯỚNG
Anatta-lakkhana Sutta (SN 22.59)

1) Một thời Thế Tôn ở Bàrànasi (Ba-la-nại), tại Isìpatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển.
2) Ở đây Thế Tôn nói với đoàn năm vị Tỳ-khưu: "Này các Tỳ-khưu". – "Thưa vâng bạch Thế Tôn". Các Tỳ-khưu ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
3) – Sắc, này các Tỳ-khưu, là vô ngã. Này các Tỳ-khưu, nếu sắc là ngã, thời sắc không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các sắc như sau: "Mong rằng sắc của tôi là như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!"
Và này các Tỳ-khưu, vì sắc là vô ngã, sắc đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các sắc: "Mong rằng sắc của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!"
4) Thọ, này các Tỳ-khưu, là vô ngã. Này các Tỳ-khưu, nếu thọ là ngã, thời thọ không thể đi đến bệnh hoạn, và có thể được thọ như sau: "Mong rằng thọ của tôi như thế này! Mong rằng thọ của tôi chẳng phải như thế này!"
Và này các Tỳ-khưu, vì thọ là vô ngã, thọ đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các thọ: "Mong rằng thọ của tôi như thế này! Mong rằng thọ của tôi chẳng phải như thế này!"
5) Tưởng, này các Tỳ-khưu, là vô ngã. Này các Tỳ-khưu, nếu tưởng là ngã, thời tưởng không thể đi đến bệnh hoạn, và có thể được tưởng như sau: "Mong rằng tưởng của tôi như thế này! Mong rằng ưởng của tôi chẳng phải như thế này!"
Và này các Tỳ-khưu, vì tưởng là vô ngã, tưởng đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các tưởng: "Mong rằng tưởng của tôi như thế này! Mong rằng tưởng của tôi chẳng phải như thế này!"
6) Các Hành là vô ngã, này các Tỳ-khưu, nếu các hành là ngã, thời các hành không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các hành như sau: "Mong rằng các hành của tôi như thế này! Mong rằng các hành của tôi chẳng phải như thế này!"
Và này các Tỳ-khưu, vì các hành là vô ngã, các hành đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các hành: "Mong rằng các hành của tôi như thế này! Mong rằng các hành của tôi không phải như thế này!"
7) Thức là vô ngã, này các Tỳ-khưu, nếu thức là ngã, thời thức không thể đi đến bệnh hoạn, và có thể có được thức như sau: "Mong rằng thức của tôi như thế này! Mong rằng thức của tôi chẳng phải như thế này!"
Và này các Tỳ-khưu, vì thức là vô ngã, thức đi đến bệnh hoạn, và không có thể có được thức: "Mong rằng thức của tôi như thế này! Mong rằng thức của tôi chẳng phải như thế này!"
8)
– Này các Tỳ-khưu, các Ông nghĩ thế nào? Sắc là thường hay vô thường?
– Là vô thường, bạch Thế Tôn!
– Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
– Là khổ, bạch Thế Tôn.
– Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
9)
– Này các Tỳ-khưu, các Ông nghĩ thế nào? Thọ là thường hay vô thường?
– Là vô thường, bạch Thế Tôn!
– Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
– Là khổ, bạch Thế Tôn.
– Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
10)
– Này các Tỳ-khưu, các Ông nghĩ thế nào? Tưởng là thường hay vô thường?
– Là vô thường, bạch Thế Tôn!
– Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
– Là khổ, bạch Thế Tôn.
– Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
11)
– Này các Tỳ-khưu, các Ông nghĩ thế nào? các Hành là thường hay vô thường?
– Là vô thường, bạch Thế Tôn!
– Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
– Là khổ, bạch Thế Tôn.
– Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
12)
– Này các Tỳ-khưu, các Ông nghĩ thế nào? Thức là thường hay vô thường?
– Là vô thường, bạch Thế Tôn.
– Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
– Là khổ, bạch Thế Tôn.
– Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
13)
– Do vậy, này các Tỳ-khưu, phàm sắc gì quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả sắc cần phải như thật quán với chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
Phàm thọ gì quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả sắc cần phải như thật quán với chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
Phàm tưởng gì quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả sắc cần phải như thật quán với chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
Phàm các hành gì quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả sắc cần phải như thật quán với chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
Phàm thức gì quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả thức cần phải như thật quán với chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
14) Thấy vậy, này các Tỳ-khưu, bậc Ða văn Thánh đệ tử yếm ly đối với sắc, yếm ly đối với thọ, yếm ly đối với tưởng, yếm ly đối với các hành, yếm ly đối với thức. Do yếm ly, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên: "Ta đã được giải thoát". Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".
15) Thế Tôn thuyết như vậy. Nhóm năm vị Tỳ-khưu hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy. Trong khi lời dạy này được nói lên, tâm của nhóm năm vị Tỳ-khưu được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ.

KINH LỬA CHÁY
Aditta-pariyaya Sutta (SN 35.28)

Vài tháng sau khi giác ngộ, Ðức Phật giảng bài pháp nầy cho 1,000 tu sĩ theo phái thờ thần lửa đồi Gayasisa. Qua lối giảng siêu việt của Ngài, Ðức Phật đã dùng ví dụ về lửa cháy (lửa tham, sân, si) để dạy về tâm xả ly đối với các cảm thọ qua sáu căn. Sau khi nghe bài giảng nầy, toàn thể thính chúng đắc quả A-la-hán.
*
1) Một thời Thế Tôn trú ở Gàya, tại Gàyasìsa cùng với một ngàn Tỳ-khưu.
2) Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỳ-khưu:
–Tất cả, này các Tỳ-khưu, đều bị bốc cháy. Và này các Tỳ-khưu, tất cả cái gì đều bị bốc cháy?
3) Mắt, này các Tỳ-khưu, bị bốc cháy. Các sắc bị bốc cháy. Nhãn thức bị bốc cháy. Nhãn xúc bị bốc cháy. Do duyên nhãn xúc nên khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy bị bốc cháy. Bị bốc cháy bởi cái gì? Bị bốc cháy bởi lửa tham, lửa sân, lửa si. Ta nói rằng bị bốc cháy bởi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não.
4) Tai, này các Tỳ-khưu, bị bốc cháy. Các thinh bị bốc cháy. Nhĩ thức bị bốc cháy. Nhĩ xúc bị bốc cháy. Do duyên nhĩ xúc nên khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy bị bốc cháy. Bị bốc cháy bởi cái gì? Bị bốc cháy bởi lửa tham, lửa sân, lửa si. Ta nói rằng bị bốc cháy bởi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não.
5) Mũi, này các Tỳ-khưu, bị bốc cháy. Các hương bị bốc cháy. Tỷ thức bị bốc cháy. Tỷ xúc bị bốc cháy. Do duyên tỷ xúc nên khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy bị bốc cháy. Bị bốc cháy bởi cái gì? Bị bốc cháy bởi lửa tham, lửa sân, lửa si. Ta nói rằng bị bốc cháy bởi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não.
6) Lưỡi bị bốc cháy. Các vị bị bốc cháy. Thiệt thức bị bốc cháy. Thiệt xúc bị bốc cháy. Do duyên thiệt xúc nên khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy bị bốc cháy. Bị bốc cháy bởi cái gì? Bị bốc cháy bởi lửa tham, lửa sân, lửa si. Ta nói rằng bị bốc cháy bởi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não.
7) Thân bị bốc cháy. Các xúc bị bốc cháy. Thân thức bị bốc cháy. Thân xúc bị bốc cháy. Do duyên thân xúc nên khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy bị bốc cháy. Bị bốc cháy bởi cái gì? Bị bốc cháy bởi lửa tham, lửa sân, lửa si. Ta nói rằng bị bốc cháy bởi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não.
8) Ý bị bốc cháy. Các pháp bị bốc cháy. Ý thức bị bốc cháy. Ý xúc bị bốc cháy. Do duyên thân xúc nên khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy bị bốc cháy. Bị bốc cháy bởi cái gì? Bị bốc cháy bởi lửa tham, lửa sân, lửa si. Ta nói rằng bị bốc cháy bởi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não.
9) Thấy vậy, này các Tỳ-khưu, vị Ða văn Thánh đệ tử nhàm chán đối với mắt, nhàm chán đối với các sắc, nhàm chán đối với nhãn thức, nhàm chán đối với nhãn xúc. Do duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; vị ấy nhàm chán đối với cảm thọ ấy.
Nhàm chán đối với tai, nhàm chán đối với các thinh, nhàm chán đối với nhĩ thức, nhàm chán đối với nhĩ xúc. Do duyên nhĩ xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; vị ấy nhàm chán đối với cảm thọ ấy.
Nhàm chán đối với mũi, nhàm chán đối với các hương, nhàm chán đối với tỷ thức, nhàm chán đối với tỷ xúc. Do duyên tỷ xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; vị ấy nhàm chán đối với cảm thọ ấy.
Nhàm chán đối với lưỡi, nhàm chán đối với các vị, nhàm chán đối với thiệt thức, nhàm chán đối với thiệt xúc. Do duyên thiệt xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; vị ấy nhàm chán đối với cảm thọ ấy.
Nhàm chán đối với thân, nhàm chán đối với các xúc, nhàm chán đối với thân thức, nhàm chán đối với thân xúc. Do duyên thân xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; vị ấy nhàm chán đối với cảm thọ ấy.
Nhàm chán đối với ý, nhàm chán đối với các pháp, nhàm chán đối với ý thức, nhàm chán đối với ý xúc. Do duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; vị ấy nhàm chán đối với cảm thọ ấy.
Do nhàm chán nên vị ấy ly tham. Do ly tham nên vị ấy được giải thoát. Trong sự giải thoát, khởi lên trí hiểu biết rằng: "Ta đã giải thoát". Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui với trạng thái này nữa".
10) Thế Tôn thuyết như vậy. Các Tỳ-khưu ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.
11) Và trong khi lời giảng giải này được nói lên, tâm của một ngàn Tỳ-khưu ấy được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ.

BƯỚC ĐẦU HỌC PHẬT

Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài, trở thành các tu sĩ nam, tu sĩ nữ hoặc các đệ tử cư sĩ. Trong một thời gian dài như thế và với rất nhiều đệ tử có nhiều nguồn gốc khác nhau, Ngài đã để lại một kho tàng các lời giảng quý báu với nhiều chủ đề, công dụng khác nhau. Tuy nhiên, cốt tủy của các lời giảng đó lúc nào cũng giống nhau:
"Nầy chư Tỳ kheo, bây giờ cũng như trước đây, Như Lai chỉ dạy về Khổ và Con đường Diệt khổ".

Đức Phật

Danh từ "Buddhism" là một danh từ phương Tây dùng để gọi tập hợp các lời dạy của Đức Phật, để gọi một tôn giáo xây dựng trên nền tảng của các lời dạy đó. Tuy nhiên, tại các quốc gia Nam Á và Đông Nam Á, danh từ nguyên thủy thường dùng là "Buddha-Sasana", có nghĩa là lời dạy của Đức Phật, hay Phật Giáo. "Buddha", Phật-đà, không phải là tên riêng. Đó là một quả vị, có nghĩa là người Giác ngộ (Giác giả), người Tỉnh thức, hoặc là người Biết như thật. Tên riêng của Đức Phật là Sĩ-đạt-đa Cồ-đàm (Siddhattha Gotama). Tuy nhiên, ngày nay có rất ít người dùng tên gọi nầy. Chúng ta thường gọi Ngài là Đức Phật, hoặc Đức Phật Cồ-đàm.
Đức Phật sống vào khoảng 25 thế kỷ trước tại vùng Bắc Ấn độ. Ngài sinh ra là một vị hoàng tử của vương quốc Thích-ca (Sakya) tại vùng chân núi Hy mã lạp sơn, ngày nay thuộc nước Nepal. Ngài sống trong nhung lụa, có một thời niên thiếu cao sang, kết hôn với công chúa Da-du-đà-la (Yasodhara), và có một người con trai tên là La-hầu-la (Rahula).

Đời sống nhung lụa đó không che được mắt của một người hiền triết và thông minh như Ngài. Mặc dù vị vua cha đã gắng công tạo các thú vui giải trí để Ngài đắm say vào các cảnh vui sướng trong hoàng cung, Ngài Sĩ-đạt-đa cũng bắt đầu nhận thức được bề mặt đen tối của cuộc đời, nỗi khổ đau của đồng loại và tính chất vô thường của mọi sự việc.

Một lần nọ, khi Ngài đánh xe ngựa dạo chơi trên đường phố, Ngài thấy được bốn cảnh vật làm thay đổi các tư duy của Ngài. Ngài thấy một cụ già run rẩy, một người bệnh rên siết, và một tử thi sình thối. Ba cảnh nầy khiến Ngài suy nghĩ rất nhiều và quyết tâm tìm một phương cách để giúp nhân loại và để tìm một ý nghĩa chân thật của đời sống. Cảnh vật thứ tư là cảnh của một vị du tăng bình an tĩnh lặng đã khiến cho Ngài có một niềm hy vọng là đó có thể là một con đường để tìm ra Chân Lý, thoát khỏi hoạn khổ.

Vào lúc 29 tuổi, thái tử Sĩ-đạt-đa rời hoàng cung, rời gia đình vợ con, gia nhập đời sống của một đạo sĩ khất thực trong 6 năm, đi tìm con đường diệt khổ. Vào đêm trăng rằm tháng Tư, khi ngồi thiền dưới cội cây Bồ đề ở Gaya, Ngài tìm được lời giải đáp và giác ngộ. Lúc đó, Ngài được 35 tuổi. Đấng Giác Ngộ giờ đây được gọi là Đức Phật. Ngài đi đến Sa-nặc (Sarnath) gần thành phố Ba-na-lại (Benares) và thuyết giảng bài pháp đầu tiên - Chuyển Pháp Luân - tại khu vườn nai (Lộc Uyển). Trong 45 năm tiếp theo, Ngài du hành từ nơi nầy sang nơi khác, giảng dạy về con đường giác ngộ cho những ai hữu duyên và sẵn sàng tu học, và Ngài thành lập một giáo đoàn các vị tỳ kheo (nam tu sĩ) và tỳ kheo ni (nữ tu sĩ) thường được gọi là Tăng đoàn (Sangha).
Trong suốt cuộc đời hoằng hóa, dù phải đối phó với nhiều trở ngại, Đức Phật lúc nào cũng giữ một phong thái an nhiên tự tại, và ngay cả trong giờ phút lâm chung, Ngài vẫn bình thản cho dù thân xác đã suy yếu. Ngay trong giờ phút cuối cùng đó, Ngài vẫn tiếp tục giảng dạy và khuyên bảo các đệ tử để họ tiếp tục tu tập theo giáo pháp của Ngài: --"Nầy các tỳ kheo, Như Lai khuyên quý vị rằng mọi pháp hữu vi đều vô thường, quý vị hãy tinh tấn với chánh niệm". Đó là những lời cuối cùng của đức Phật, và Ngài nhập diệt vào năm 80 tuổi, trong năm 543 trước Công Nguyên.

Mặc dù giờ đây đã hơn 2 500 năm từ khi Đức Phật nhập Đại Niết bàn, lời dạy của Ngài, hay là Phật Pháp (Dhamma), vẫn còn hữu ích cho chúng ta và Giáo Pháp đó chính là vị Thầy của chúng ta. Tăng đoàn là cộng đồng những người quyết tâm học hỏi, thực hành và truyền dạy Chánh Pháp, đã nhận ngọn đuốc từ vị Thầy khai sáng và tiếp tục truyền giữ ngọn đuốc đó qua nhiều quốc độ và nhiều thế kỷ. Ba yếu tố nầy -- Đức Phật, người khai sáng đạo; Pháp, lời dạy của Ngài; và Tăng, cộng đồng các tu sĩ -- lập thành Tam Bảo mà các Phật tử tôn kính, và cũng là Ba Nơi Nương Tựa (Tam Quy Y) để hướng dẫn người con Phật trên Con đường đưa đến hạnh phúc và an lành tối hậu. Mỗi năm, vào ngày rằm tháng Tư âm lịch (ngày Vesakha), hằng triệu tín đồ Phật giáo -- trong truyền thống Nguyên thủy -- trên toàn thế giới cùng nhau cử hành đại lễ Tam Hợp, kỷ niệm ngày sinh (Phật Đản), ngày Thành Đạo, và ngày Đại Niết Bàn của người Cha Lành kính yêu.

Căn bản đạo Phật

Các ý tưởng chính yếu của đạo Phật được thu gồm trong Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế) và Con Đường Trung Dung (Trung Đạo) mà Đức Phật đã giảng trong bài pháp đầu tiên tại vườn nai sau ngày thành đạo. Bốn sự thật đó là:

1. Sự thật về Khổ (Khổ đế): Đây là sự thật về các vấn đề của đời sống, qua sinh, già, bệnh, và chết, và những ưu sầu, thất vọng. Dĩ nhiên những điều nầy là bất toại ý và người ta luôn cố gắng tránh né, không muốn dính vào chúng. Hơn thế, tất cả những việc gì trên đời, do các điều kiện mà có, thường có mầm mống đau khổ vì chúng không thường tồn, chỉ tạm bợ, xung khắc và giả tạo, không có một chủ thể lâu bền. Chúng tạo sầu khổ và thất vọng cho những ai vì vô minh mà chấp chặt vào chúng. Những ai muốn tự do thoát khỏi các khổ đau cần có một thái độ đúng đắn, một tri kiến và trí tuệ để nhìn mọi sự vật trên đời. Cần phải học tập để nhận định sự vật đúng theo bản chất của chúng. Các sự cố bất toại ý của đời sống cần phải được quán sát, nhận định và thông hiểu.

2. Sự thật về Nguồn gốc của Khổ (Tập đế): Trong sự thật nầy, Đức Phật quán xét và giải thích sự khởi sinh của hoạn khổ từ nhiều nguyên nhân và điều kiện. Đây là sự thật sâu xa về luật Nhân-Quả và Duyên Nghiệp. Tất cả các loại hoạn khổ trên đời đều bắt nguồn từ lòng tham thủ, và các tham muốn ích kỷ đều bắt nguồn từ si mê, vô minh. Vì không biết rõ bản chất thật sự của mọi đối tượng trên đời nên con người tham muốn chiếm đoạt và làm nô lệ chấp chặt vào chúng. Vì các tham muốn đó không bao giờ được thỏa mãn và qua những phản ứng không thích nghi, họ lại tạo ra sự buồn khổ và thất vọng cho chính họ. Từ các tham thủ biểu hiện qua lời nói, cử chỉ hoặc trong tâm ý, họ tạo ra các nghiệp hành gây đau khổ cho chính họ và cho người khác, và đau khổ đó ngày càng chồng chất.

3. Sự thật về sự Diệt Khổ (Diệt đế): Đây là sự thật về mục đích của người con Phật. Khi vô minh hoàn toàn được phá tan qua trí tuệ chân thật và khi lòng tham thủ và ích kỷ bị hủy diệt và thay thế bằng thái độ đúng đắn của từ bi và trí tuệ, Niết Bàn -- trạng thái của an bình tối hậu, hoàn toàn giải thoát khỏi mọi khổ đau và lậu hoặc -- sẽ được thực chứng. Đối với những ai vẫn còn đang tu tập, chưa đến giải thoát rốt ráo, họ sẽ thấy rằng khi sự vô minh và tham thủ được giảm thiểu thì các phiền não cũng theo đó mà giảm thiểu. Khi đời sống của họ được hướng về từ bi và trí tuệ, đời sống đó sẽ tạo ra nhiều hạnh phúc và an lành cho chính họ và những người chung quanh.

4. Sự thật về Con đường đưa đến tận diệt Khổ đau (Đạo đế): Đây là sự thật về con đường hành đạo của mọi Phật tử, là đường hướng sinh hoạt của người con Phật, bao gồm các căn bản chính yếu của lời Phật dạy và đường lối thực hành để tiến đến Niết Bạn, giải phóng khỏi mọi ràng buộc vào cuộc sống luân hồi trong thế gian. Con đường nầy gọi là Con Đường Tám Chánh (Bát Chánh Đạo), gồm có 8 yếu tố chân chánh và chia thành 3 nhóm (Tam vô lậu học, 3 nhóm học để diệt trừ phiền não):
- Giới: Chánh ngữ, Chánh nghhiệp, Chánh mạng
- Định: Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định
- Tuệ: Chánh kiến, Chánh tư duy

Theo sự thật nầy, một đời sống tốt đẹp không phải chỉ do gắng công cải thiện các yếu tố ngoại vi liên quan đến xã hội và thiên nhiên. Cần phải phối hợp với sự tu tập và cải thiện bản thân như trình bày qua Bát Chánh Đạo, có liên quan đến việc giữ gìn giới hạnh, huân tập tâm ý, và khai phát trí tuệ. Nói cách khác:
- Không làm điều gì gây đau khổ cho mình và cho người khác;
- Nuôi dưỡng điều thiện tạo an vui cho cá nhân và cho mọi người; và
- Thanh lọc tâm ý, loại trừ những bợn nhơ của tham lam, sân hận, và si mê.

Con đường Tám Chánh nầy gọi là Trung Đạo, vì đây là một đường lối thăng bằng, không có những cực đoan của sự hành hạ xác thân hoặc nô lệ dục lạc. Đây là con đường duy nhất để giác ngộ giải thoát. Đức Phật dạy rằng nơi nào các đệ tử của Ngài luôn gắng công hành trì trên con đường nầy thì nơi đó sẽ không bao giờ thiếu vắng các bậc thánh trí giác ngộ. Sự phân tích thành 8 yếu tố hoặc 3 nhóm tu học là để cho dễ hiểu. Tuy nhiên, các yếu tố đó cần phải được hành trì đồng đều - không thiếu sót một yếu tố nào - để bổ sung, hỗ trợ cho nhau, thì con đường đó mới trọn vẹn và mang đến ích lợi, giải thoát thật sự.

Trên đây là một thái độ sống của đạo Phật, một con đường rộng mở cho tất cả mọi người, không phân biệt màu da, giới tính, giai cấp. Đức Phật tuyên bố rằng mọi người đều bình đẳng, và chỉ được đánh giá qua hành động và phong cách của họ, qua những gì họ suy nghĩ và thực hành, không phải qua màu da và quê quán. Mỗi người lãnh chịu hậu quả về hành động của mình theo luật nhân quả. Mỗi người là chủ của mình. Con đường tu học là con đường tự nỗ lực, không cần các điều cầu xin thần linh hay mê tín dị đoan. Con người có khả năng cải thiện cho đời sống của chính họ và đạt đến mục đích tối hậu qua các cố gắng tinh tấn của chính họ. Ngay cả Đức Phật cũng không bao giờ tuyên bố Ngài là đấng cứu rỗi. Ngài chỉ là người tìm ra Con đường giải thoát, và Ngài chỉ dạy cho chúng ta về con đường đó. Ngài hướng dẫn và khuyến tấn chúng ta, nhưng chúng ta phải tự mình tiến bước trên con đường đó. Khi ta tiến bước được trên những chặng đường thì ta có thể khuyến khích và hướng dẫn những người bạn đồng hành của ta.

Cho những ai đang đi trên con đường thanh lọc bản thân, Đức Phật dạy rằng tri thức và trí tuệ là chìa khóa quan yếu. Trí tuệ chỉ có thể được khai phát qua hành trì thiền quán. Hành giả cần phải quán soi thâm sâu vào nội tâm, để trạch vấn và thông hiểu cho chính mình. Các nguyên tắc của đạo Phật là phải tự mình chứng ngộ, chứ không phải những giáo điều để mù quáng tin theo.

Phương pháp Đức Phật dạy qua Tứ Diệu Đế có thể xem như là những lời dạy của một vị y sĩ: định bệnh (Khổ đế), xác định nguyên nhân của bệnh (Tập đế), mô tả trạng thái khi lành bệnh (Diệt đế), và cách thức trị bệnh (Đạo đế).

Có rất nhiều người ưa thích bàn luận, dò đoán, bình giải về các lời dạy của Đức Phật, qua lăng kính triết lý, luận lý, tâm lý, tâm linh, v.v. Tuy nhiên, đó chỉ là những kiến thức đầu tiên, phiến diện, qua sách vở và suy luận, thường gọi là Văn huệ và Tư huệ. Thêm vào đó, đạo Phật cần phải được thực chứng để phát triển trí tuệ thật sự, gọi là Tu huệ, chứ không phải chỉ để lý luận, tranh cãi suông. Đạo Phật là những hướng dẫn để chúng ta thực hành, tu tập thanh lọc tâm ý, để chúng ta thấy được lợi ích qua kinh nghiệm thực tế của chính bản thân trong đời sống hằng ngày. Đức Phật đã từng dạy rằng:
"Giáo pháp của Như Lai được giảng rõ ràng, để thực chứng với kết quả hiện tiền, vượt thời gian, mời mọi người đến xem, đưa đến giải thoát, được người trí thông hiểu, tự mỗi người phải thực hiện cho chính mình".

Theo: Tỳ kheo Bodhicitto, "Introducing Buddhism"
(Bình Anson lược dịch, tháng 02-1999)

TU LÀ HIỀN

Buổi nói chuyện hôm nay tôi nhắm vào quí Phật tử Phước Thái nhiều hơn là quí Phật tử ở các nơi. Vậy quí vị hãy lắng nghe cho kỹ. Ở đây tôi không giảng những đề tài cao siêu, mà đặt những câu hỏi rất thực tế, rất thấp, quí vị hãy trả lời đúng như chỗ mình biết, để rồi tôi hướng dẫn cho quí vị tu hành.
- Quí vị đi chùa học đạo, có phải tu theo đạo Phật không ?
- Thưa phải.
- Vậy, người tu là hiền hay dữ ?
- Dạ hiền.
- Người đi chùa, lạy Phật, ăn chay, tụng kinh, nếu có người xúc chạm đến thì nóng nảy la lối. Như vậy có hiền không ?
- Dạ chưa hiền.
- À, chưa hiền tức là chưa tu. Vậy đi chùa tụng kinh mà chưa hiền thì chưa gọi là người tu. Người tự nhận mình tu theo đạo Phật mà chưa hiền thì sao ? Phải tu thế nào mới gọi là tu theo đạo Phật và làm thế nào để được hiền, quí vị biết không ?
- Dạ chưa biết.
- Đây, tôi hướng dẫn cho quí vị tu để thành người hiền rất thực tế và dễ dàng. Theo tinh thần đạo Phật tu là tu ở ba nghiệp : thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Khi chưa biết tu, thân có khi làm lành có lúc làm dữ, miệng có khi nói lời thiện có lúc nói lời ác, ý có khi nghĩ tốt có lúc nghĩ xấu. Khi biết tu thì việc lành nên làm, việc dữ nên tránh. Lời thiện thì nói, lời ác thì chừa. Điều tốt thì nghĩ, điều xấu thì dừng. Người biết tu thì thân không làm ác, miệng không nói ác, ý không nghĩ ác, dó là người hiền. tu chủ yếu không phải ăn chay nhiều, vậy mà Phật tử cứ đua nhau ăn chay, cho ăn chay nhiều là tu, chớ không biết tu là chừa ba nghiệp ác. Nhân gian có câu ca dao để nhạo báng người ăn chay mà không hiền :

Sân si nghiệp chướng không chừa,
Bo bo mà giữ tương dưa làm gì ?

Tham sân si là nghiệp chướng của thân miệng và ý thì không chịu chừa bỏ, mà cứ đua nhau ăn chay, rồi cho đó là tu, tu như vậy không đúng với chủ trương của đạo Phật. Tu là thân không làm ác, miệng không nói ác, ý không nghĩ ác. Trong gia đình, nếu mọi người không biết tu thì cứ cãi vả chửi bới gây phiền não cho nhau. Thậm chí gây cãi không nguôi cơn giận thì đánh đập, đánh đập không thỏa mãn cơn giận thì tình nghĩa không còn, mà tình nghĩa đã hết thì ly dị chia tay, gia đình đổ nát. Nếu mọi người biết tu thì ý vừa khởi nghĩ ác, liền biết xấu chế ngự không dám nói lời nặng, không nói nặng thì đâu có cãi, không cãi thì làm gì có chuyện đánh đập, không đánh đập thì đâu có ly dị, gia đình thường được an vui hạnh phúc. Như vậy, nếu người biết tu thì ý không bao giờ nghĩ xấu cho ai, thì tâm không bực bội phiền não, lúc nào cũng vui vẻ an ổn. Nếu ý không nghĩ xấu thì miệng thân đâu có nói, làm hung ác khiến cho người đau khổ. Không làm khổ người thì được người thương mến, người thương mến thì không hại, nếu có chuyện bất trắc thì được người giúp đỡ. Khi đã biết tu thì tân miệng ý lúc nào cũng thiện, ba nghiệp mà thiện thì tự thân được an vui, trong gia đình trên thuận dưới hòa, ngoài xã hội không gây xáo trộn sẽ được trật tự an bình. Như vậy người biết tu,chẳng những chính bản thân mình được lợi ích, mà gia đình và xã hội cũng được lợi ích. Đó là người tu đúng theo lời Phật dạy.
Nếu chỉ biết ăn chay, tay lần tràng hạt, nhưng mỗi khi có ai xúc chạm đến thì la lối chửi rủa không thua ai; người như thế không hiền, chưa phải là người tu. Do vậy, nên bị chế nhạo : “Ngoài miệng thì niệm Nam mô trong bụng thì chứa một bồ dao găm”. Ngoài mệng thì niệm Phật lâm râm, nhưng trong tâm thì quá hung dữ. Thế nên, ăn chay nhiều niệm Phật nhiều, mà không chịu tu thân, mệng, ý cho hiền thì chỉ làm trò cười cho thiên hạ. Vì ậy, khi nói tới tu, người Phật tử phải nhớ thân mệng ý phải thện. Phật dạy tu một giờ, là được an vui hạnh phúc một giờ, tu một ngày là được an vui hạnh phúc một ngày, tu một năm là được an vui hạnh phúc một năm.
Gần đây có một số Phật tử nghĩ rằng ăn chay, đi chùa, làm công quả có phước, nên ham, đua nhau làm. Ví dụ trong gia đình ăn chay một tháng bốn ngày, vì nghe nói ăn chay có phước nhiều được khen, nên người vợ tăng thêm sáu ngày, rồi mười ngày... chồng con ăn theo không nổi nên có chuyện xào xáo trong gia đình. Người vợ mới than trách rằng tôi muốn tu muốn tiến, mà bị quỉ nó phá nó ngăn không cho tu tiến. Người nghĩ nói như vậy có tu không ? Tu mà ý khởi nghĩ ác, miệng chửi chồng con là quỉ. Như vậy, chưa phải là người Phật tử chân chính. Người Phật tử chân chánh không đặt nặng việc đi chùa thường, tụng kinh giỏi, ăn chay nhiều, mà phải biết tu ba nghiệp thân khẩu ý cho thiện. Tu là chuyển ba nghiệp ác thành ba nghiệp thiện. Đi chùa niệm Phật ăn chay là nhớ từng hành động, từng lời nói, từng ý nghĩ luôn luôn phải hiền. Như vậy, có lúc nào là không tu. Chẳng hạn thân cuốc cỏ, xưa thấy rắn thì lấy cuốc đập chết, nay thấy rắn tránh không đập. Đó là chuyển nghiệp thân ác tành thiện. Xưa khi tiếp xúc với bạn bè, họ nói lời hung dữ làm mình tức giận bèn nói nặng lời cho bỏ ghét, nay nhớ mình là người tu không được lớn tiếng gây cãi, nên im lặng mà nhẫn nhịn. Đó là chuyển nghiệp khẩu ác thành thiện. Lúc ngồi một mình vừa khởi nghĩ xấu về người, liền hổ thẹn dừng không nghĩ nữa. Đó là chuyển nghiệp ý ác thành thiện. Tu như vậy, đâu đợi vô chùa tụng kinh lạy Phật mới tu, mà giờ nào ở đâu cũng tu được, thế mới đúng ý nghĩa tu của đạo Phật. Nếu hiểu và tu như vậy, thì lo gì mai kia không được về cõi Phật. Trong kinh có câu : “Tam nghiệp hằng thanh tịnh, đồng Phật vãng Tây phương”. Ba nghiệp mà hằng trong sạch thì đồng với Phật về cõi Phật. Nếu không bỏ ba nghiệp ác, mà cố niệm Phật nhiều cầu Phật A Di Đà rước về Cực lạc, cũng không được rước về, vì ba nghiệp còn ác thì về đó cứ gây cãi đánh đập hoài, biến cõi Cực lạc thành cõi Ta bà khổ hay sao ?
Vậy, tu cốt là chuyển ba nghiệp ác thành ba nghiệp thiện là bước đầu, tụng kinh niệm Phật là bước kế tiếp. Bước đầu là nền tảng mà không thực hiện trước, lại đi bước thứ hai, giống như cất nhà lầu mà không xây nền móng, quyết định cái nhà sẽ đổ không thành. Lại cũng có nhiều Phật tử đi chùa lâu năm, ăn chay, niệm Phật, nếu con cháu có làm gì trái ý thì mắng chửi không tiếc lời, khiến cho con cháu buồn không thương mến. Rồi viện cớ là chỉ hiền với người ngoài thôi, đối với con cháu trong nhà là phải khó phải dữ nó mới sợ. Người Phật tử nói như vậy là không đúng. Tu là phải hiền, hiền với tất cả mọi người, từ trong nhà cho đến ngoài xã hội. Giả sử con cháu có nói bậy, làm sai, thì nên ôn tồn nhỏ nhẹ khuyên dạy con cháu. Đừng nên chửi bới la rầy, vì lúc nóng giận không kiểm soát được ý nghĩ lời nói, sẽ nói bậy, mà nói bậy thì mất uy tín với con cháu.
Kinh Phật ví dụ một Trưởng giả có tất cả bốn bà vợ. Người vợ thứ nhấùt rất trung thành với ông, thế mà suốt ngày ông không hề nghĩ tới. Người vợ thứ hai được ông lưu ý chút ít. Người vợ thứ ba được ông nhắc nhở liền miệng. Người vợ thứ tư thì ông ở đâu bà có mặt ở đó, không rời một gang tấc. Một hôm ông đau nặng sắp chết, hỏi cả bốn người vợ :
- Tôi sắp chết, trong bốn bà có ai nguyện chết theo tôi không ?
Vợ thứ tư lên tiếng :
- Bình thường ông ở đâu thì tôi có mặt ở đó, bây giờ ông chết tôi xin đưa ông tới cửa.
Vợ thứ ba lên tiếng tiếp :
- Bình thường tôi được ông lưu ý nhắc nhở liền miệng, bây giờ ông chết tôi xin đưa ông tới cổng.
Vợ thứ hai nói :
- Bình thường tôi cũng được ông nhắc nhở, bây giờ ông chết tôi xin đưa ông tới mộ.
Vợ thứ nhấùt nói :
- Bình thường tuy ông không nghĩ tới tôi,nhưng bây giờ ông chết, tôi nguyện chết theo ông.
Quí vị thấy ông Trưởng giả quá bất công và bội bạc, người thương mình, trung thành với mình thì lơ là không nghĩ đến, người thương ít thì luôn luôn theo dõi không rời. Ông Trưởng giả bất công bội bạc này Phật dụ cho mỗi chúng ta. Người vợ thứ tư Phật dụ cho tiền bạc. Chúng ta ở nhà, hay đi đâu đều có tiền trong túi không thể thiếu nó. Nhưng khi chúng ta chết thì nó nằm trong tủ, hoặc ơ ûnơi rương thuộc phạm vi trong nhà, vì vậy mà nói đưa tới cửa. Người vợ thứ ba dụ cho của cải sự nghiệp nhà cửa; nó ở trong phạm vi vòng rào nhà, nên nói đưa tới cổng. Người vợ thứ hai dụ cho công danh chức tước; khi đưa quan tài người chết tới huyệt thì đọc điếu văn kể công trạng chức tước rồi mới hạ huyệt chôn cất, nên nói đưa tới mộ. Người vợ thứ nhấùt dụ cho nghiệp lành hay nghiệp dữ theo mình như hình với bóng, có mình ở đâu thì có nó ở đó không rời nhau, nên nói tình nguyện chết theo.
Tác động của thân khẩu ý lặp tới lặp lui nhiều lần gọi là nghiệp. Người dạy học hằng ngày thì gọi là nghề giáo hay nghiệp giáo. Người cùng làm một việc thì gọi là bạn đồng nghiệp. Có người là có nghiệp; người, nghiệp không rời nhau. Giả sử như ông thầy giáo đi đường có mang theo một số tiền, bất thần ông bị tai nạn, bao nhiêu tiền của ông mang theo đều mất hết. Nhưng nghiệp dạy học vẫn còn không mất, về nhà ông vẫn đến trường tiếp tục dạy học trò. Như vậy, tiền của sự sản là cái ngoài mình, nên bị mất dễ dàng không thể giữ được mãi mãi. Còn nghiệp là cái không ngoài mình, nên chẳng bao giờ mất. Thế mà trong cuộc sống hằng ngày, mọi người đều nghĩ làm sao cho có tiền, làm sao cho có của, nếu có tiền có của rồi thì muốn có địa vị danh vọng. Trong ba thứ đó nghĩ tới tiền nhiều nhứt, rồi tới của cải, danh vọng. Khi chết, thì tiền của từ giã mình trước nhất, tức là khi chết nó ở lại chớ không theo mình. Trong đời này không ai là không chết , hoặc chết sớm hoặc chết muộn, khi chết thì không ai đem được tiền của theo, chỉ có nghiệp lành hay nghiệp dữ theo mà thôi. Thế nên, nếu là người Phật tử khôn ngoan sáng suốt, dù cho làm ra nhiều tiền của mà làm ác thì nhất định không làm, vì khi chết tiền của không cứu được tội khổ và phải để lại tất cả, chỉ có một mình mình chịu quả báo khổ đau. Nghĩ và nói ác mà đem lại lợi lộc cho mình cũng không nói. Như thế, mới không bị tiền tài sai sử tạo nghiệp ác. Ngày nay không gây tạo tội lỗi, không bị người chê trách, mai kia chết đi cũng nhẹ nhàng thảnh thơi, đó là khéo giữ khéo tu ba nghiệp. Ca dao có câu :

Bởi chưng kiếp trước khéo tu,
Ngày nay con cháu võng dù nghênh ngang.

Do kiếp trước khéo tu nên ngày nay con cháu mới sang trọng , nếu hiện tại không chịu tu thì con cháu về sau khó khổ. Chúng ta tu là tạo cho cuộc sống hiện tại tốt đẹp an vui, ngày mai lại càng an vui tốt đẹp hơn. Người biết tu thì thường nhớ tới nghiệp , để tránh nghiệp ác làm nghiệp lành, hơn là nhớ tới tiền của vật chất. Tuy trong cuộc sống, chúng ta phải làm ra tiền mới sống được, nhưng phải làm sao cho công bằng lương thiện, mình an vui, người không khổ, hiện tại mình hạnh phúc mai sau cũng an lành. Vậy, tu không phải mong cầu cái gì cao siêu huyền bí, mà ngay trong thực tế, thường làm lợi mình lợi người một cách cụ thể không mơ hồ viễn vông.
Đạo Phật chủ trương tu là để giải thoát, song nói giải thoát có vẻ xa vời quá ! Nhưng, nếu thực tế thân chúng ta không làm ác là giải thoát được cái khổ nghiệp ác của thân. Vì nếu cướp của giết người thì bị cái khổ đánh đập tù tội, bây giờ không tạo nghiệp ác thì thân được lành mạnh tự do, đó là giải thoát nghiệp ác của thân. Nếu miệng không nói lời hung dữ ác độc thì giải thoát được nghiệp ác của miệng. Ý không nghĩ ác thì giải thoát được tâm niệm xấu xa buồn ghét người khác. Tuy không hoàn toàn giải thoát nhưng có giải thoát từng phần; tu ít thì giải thoát ít, tu nhiều thì giải thoát nhiều, có tu là có bớt khổ. Chẳng những bớt khổ trong đời này mà đời sau còn được an vui nữa. Nên người biết tu không sợ chết, vì ai cũng phải chết, và biết rằng mình không tạo nghiệp ác thường tạo nghiệp lành, sau khi chết sẽ an vui không khổ. Tuy nhiên, đừng vì muốn giải thoát mà liều chết sớm để được khỏe mạnh sướng, thì không đúng với tinh thần giải thoát của đạo Phật. Thông thường thì người đời tham sống sợ chết, nên nghe nói chết rất sợ. Nhưng người biết tu thì ngay cuộc sống hiện tại lúc nào cũng an vui, khi chết đến thì bình thản không loạn động, nên không muốn chết sớm mà cũng không sợ chết. Vì vậy mà Phật Tổ mới dạy chúng ta tu, tu là nguồn cội hạnh phúc, hết phiền não hết khổ đau.
Kể từ ngày nay quí Phật tử ở gần Thiền viện, mỗi tháng hai lần vào ngày rằm và ba mươi, nên đi chùa sám hối và nghe quí thầy giảng để biết phương hướng mà tu tập. Nghe một lần tuy biết đó, nhưng vì cái bệnh của chúng sanh là hay quên, nên mỗi tháng phải đi hai lần, nhờ các thầy nhắc nhở, luôn ghi nhớ mới tinh tấn mà tu hành.

Thứ Tư, 23 tháng 1, 2013

Tịnh Độ Thực hành - Vấn Đáp

PHẦN I
VẤN ĐÁP

A. THỰC HÀNH

1. Hỏi: Chư Tổ dạy: "Hành giả Tịnh nghiệp phải tín sâu, nguyện thiết, hành chuyên". Tín là tin, mà tin những gì và tin sâu là sao?

Đáp: Tín là lòng tin.

- Liên tông Cửu Tổ Ngẫu Ích đại sư dạy trong Kinh A Di Đà Yếu Giải, có sáu thứ tin là: tin tự, tin tha, tin nhân, tin quả, tin sự và tin lý.

- Liên tông Thập Tổ Hành Sách đại sư dạy phải có ba điều tin như sau:

a. Phải tin tâm, Phật, chúng sanh, cả ba không sai khác.

b. Phải tin tánh giác không hai.

c. Phải tin ta là Phật lý tánh, Phật danh tự, A Di Đà là Phật cứu cánh. (Xin đọc sách "Niệm Phật Đạt Bất Niệm Tự Niệm Bảo Đảm Vãng Sanh, Phần II - Tư lương Tịnh Độ").
Tóm lược là phải tin như sau:

a. Tin có Phật A Di Đà, có cõi Cực Lạc.

b. Tin Phật Thích Ca không nói dối (trong ngũ Kinh).

c. Tin Phật A Di Đà không nguyện suông (bốn mươi tám đại nguyện của Phật A Di Đà).

d. Tin niệm Phật nhất định được vãng sanh, thành Phật.

e. Phải tin sâu: giá như tất cả chúng sanh trong mười phương thành bậc A la hán, thành Bồ tát đồng khuyên ta bỏ, thậm chí Đức Phật Thích Ca hiện thân bảo ta bỏ pháp môn niệm Phật cầu sanh Cực Lạc để quý Ngài chỉ dạy ta pháp khác vi diệu hơn, ta vẫn bái lạy quý Ngài mà thưa rằng: "Bạch đức Thế Tôn, Bạch quý Ngài, từ trước đến nay con vẫn tin lời dạy trước đây của Thế Tôn, niệm Phật A Di Đà cầu vãng sanh Cực Lạc, nay con không thể trái lại bản nguyện này".
2. Hỏi: Làm sao để nguyện thiết?

Đáp: Nguyện là nguyền, là thề, là nói lên lòng khát khao ao ước của mình, muốn sanh về, muốn thấy Phật A Di Đà.

Nguyện phải chí thành tha thiết với đức từ phụ, lòng ta như con thơ nhớ mẹ, với cõi Cực Lạc lòng ta như viễn khách tưởng cố hương.

Cổ đức dạy: "Cho dù mỗi ngày niệm mười vạn tiếng Phật hiệu, chẳng phát nguyện thì hét cho bể cuống họng cũng uổng công mà thôi".

Từ Chiếu đại sư nói: "Luôn luôn phát nguyện ưa thích vãng sanh, ngày ngày nguyện cầu chớ cho thoái thất. Nếu không có tâm phát nguyện thì căn lành chìm mất".

Kinh Hoa Nghiêm nói: "Không phát đại nguyện, đó là việc làm của ma". "Nguyện rộng thì hành sâu, hư không không lớn, tâm vương mới lớn. Kim cang chẳng cứng, nguyện lực cứng nhất".

Muốn có nguyện thiết tha, chúng ta hãy tự quán xét lại chính mình, tìm đối tượng mình nhàm chán ghét bỏ; hoặc mình đang tha thiết mong muốn điều gì, việc gì, khía cạnh nào đó mà ở Ta bà này không thực hiện được, chỉ ở Cực Lạc mới có thể thỏa mãn được lòng mong muốn ấy, thì lấy đối tượng, sự việc ấy làm động cơ thúc đẩy ta thiết tha phát nguyện vãng sanh.

Thí dụ:

- Thật sự nhàm chán, ghét bỏ sự hiểm nguy của sanh tử luân hồi.

- Nhận rõ, ghê sợ nổi khổ đau của ba đường ác.

- Người mắc bệnh nan y, chờ chết. Ở Cực Lạc thì không bệnh, không già, không chết, được sống lâu vô hạn.

- Con em ngỗ nghịch, xì ke ma túy... mình khuyên lơn, nhắc nhở không được, sợ họ bị sa địa ngục, mình càng cần phải vãng sanh Cực Lạc để cứu độ họ.

- Hoặc cần báo đáp tứ trọng ân...

Nếu ta còn ở Ta bà sẽ bị đau khổ mãi mãi, phải bó tay, không thể cứu độ được mọi người như ý muốn. Vậy chỉ còn cách vãng sanh Cực Lạc để tránh khổ đau, được an vui, hoặc để rồi trở về Ta bà cứu độ thân nhân. Tùy mỗi người, mỗi hoàn cảnh, mỗi vấn đề, mỗi đối tượng khác nhau, có ý nguyện khác nhau, lấy đó làm động cơ thúc đẩy ta phát nguyện. Lời phát nguyện này phải xuất phát tận đáy lòng, chân thành mong muốn, ao ước thì lời phát nguyện mới thật sự thiết tha được.

Chư Tổ dạy: "Nguyện bất thiết, bất sanh Cực Lạc".

Tổ thứ chín, Ngẫu Ích đại sư dạy: "Vãng sanh hay không là do có Tín, Nguyện hay không? Còn phẩm vị cao hay thấp là do công phu sâu hay cạn (tức Hạnh)".

Lời nguyện phải chân thật, chí thành khẩn thiết, không phải trả bài thuộc lòng, càng không phải là việc làm lấy lệ. Dù cho biển cạn, núi tan, thời gian cùng tận, nguyện vãng sanh này quyết không hề thoái thất.

3. Hỏi: Hạnh là sao?

Đáp: Hạnh là thực hành, hành trì thực tế để làm sao đạt được sự nhập tâm (bước đầu của Bất niệm tự niệm).

Hạnh có hai: Chánh hạnh (nội công) và trợ hạnh (ngoại công).

Chánh hạnh là niệm Phật, lễ Phật A Di Đà, là chuyên tu niệm Phật (xin xem mục Chuyên tu chánh hạnh, trang 75-77, sách Niệm Phật Đạt Bất Niệm Tự Niệm Bảo Đảm Vãng Sanh).

Trợ hạnh có rất nhiều, chủ yếu là ba hạnh: đoạn ác tu thiện là giữ giới, không sát sanh (ăn chay) và phóng sanh.

Nếu chúng ta giữ trọn vẹn năm giới thì tương lai nhất định không bị đọa ba đường ác, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, ít nhất cũng được trở lại làm người. Ta dùng công đức này hồi hướng sẽ được vãng sanh Cực Lạc ở phẩm vị cao.

Liên tông Bát Tổ Liên trì đại sư dạy: "Ăn mặn, ăn thịt, cá, ăn thịt chúng sanh là ăn thịt cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp của mình, là ăn thịt chư Phật vị lai (cực ác)", "Chuộc mạng phóng sanh, cứu mạng chúng sanh là cứu mạng cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp của mình, là cứu mạng chư Phật vị lai (cực thiện)".

Tuy là trợ hạnh nhưng ba hạnh này tích cực đóng góp vào sự thành tựu Tịnh nghiệp của hành giả. Ba việc này không ngoài tầm tay, không ngoài khả năng của mọi người. Điều quan trọng là chúng ta có quyết tâm thực hiện hay không mà thôi. Chúng tôi thiết nghĩ, là Phật tử, chúng ta nên luôn luôn làm theo lời Phật dạy (y giáo phụng hành).

4. Hỏi: Trong ba tư lương Tín, Nguyện, Hạnh, điều nào quan trọng nhất?

Đáp: Ba món tư lương: Tín, Nguyện, Hạnh là ba chân của cái đảnh, thiếu một, đảnh sẽ ngã, có nghĩa là bắt buộc phải có đủ cả ba.

Kinh Hoa Nghiêm dạy: "Lòng tin là gốc vào đạo, là mẹ đẻ mọi công đức. Lòng tin hay nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt qua các đường ma. Lòng tin có thể được vào định. Lòng tin có thể thoát biển sinh tử luân hồi. Lòng tin có thể thành tựu đạo Giác ngộ của Phật".

Liên Tông Cửu Tổ Ngẫu Ích đại sư dạy: "Vãng sanh hay không do có Tín, Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp tùy theo công phu sâu hay cạn".

Chư Tổ cũng dạy: "Nguyện bất thiết, bất sanh Cực Lạc" hoặc "Niệm bất chánh, bất sanh Cực Lạc".

Có tin sâu mới nguyện thiết, nguyện thiết rồi hành chuyên. Hành chuyên, chứng tỏ có tin sâu, nguyện thiết. Ba món này liên hệ hỗ tương lẫn nhau. Trong Tín có Nguyện, có Hành, trong Nguyện có Tín có Hành, trong Hành có Tín có Nguyện. Một là ba, ba là một (tương tức). Không cái nào quan trọng hơn cái nào cả.

Tuy nhiên phải biết tùy duyên:

a. Đối với liên hữu sơ cơ, gia duyên ràng buộc, quá bận rộn thế sự, thì lấy Tín Nguyện làm đầu, nghĩa là tinh luyện Tin sâu, Nguyện thiết, Hành pháp "Thập Niệm" để được vãng sanh là tốt rồi.

b. Đối với liên hữu túc căn sâu dày, duyên vãng sanh chín mùi, đã có tin sâu, nguyện thiết rồi thì hãy kiên trì, dõng mãnh chuyên tu chánh hạnh, chánh định nghiệp, quyết đạt Bất niệm tự niệm sâu để vãng sanh Thượng phẩm thượng sanh, hầu sớm trở về Ta bà cứu độ chúng sanh.
Màn hình làm giấy.
Phím chữ làm bút.
Màu sắc làm mực.
Thường chép kinh Phật.

Hư không dầu có hao mòn,
Tâm này Phật Pháp vẫn còn sáng soi
5. Hỏi: Bí quyết của niệm Phật là gì?

Đáp: Liên tông Bát Tổ Liên Trì đại sư dạy: "Bí quyết niệm Phật là niệm nhiều". Nhiều ở đây phải hiểu là nhiều câu và nhiều thời gian.

Liên tông Thập Nhất Tổ Tĩnh Am đại sư và Liên tông Thập nhị Tổ Triệt Ngộ thiền sư đồng dạy: "Niệm Phật phải niệm không xen tạp và không gián đoạn". Không xen tạp nghĩa là không hoài nghi, không mong cầu, không xen thêm bất cứ gì khác (không xen vào danh hiệu Phật, Bồ tát khác như Thích Ca, Dược Sư, Quán Âm…, tham, sân, si, … tạp niệm), để niệm được nhiều câu "A Di Đà Phật" hơn. Không gián đoạn là niệm liên tục suốt thời thời khắc khắc, không có kẽ hở (để được nhiều thời gian).

Tóm lại, xin nói rõ, bí quyết niệm Phật là: "Niệm nhiều, không xen tạp, không gián đoạn". Muốn hành được bí quyết này, điều tối yếu là phải "Buông xả vạn duyên, chí tâm Lão thật niệm Phật".

6. Hỏi: Sao con niệm Phật quá chừng chừng, mà không nhập tâm? Còn ông xã con niệm Phật lai rai mà được nhập tâm?

Đáp: Niệm Phật muốn đạt nhập tâm và những bước kế tiếp, phải chuyên tu chánh hạnh, chánh định nghiệp. Muốn vậy, phải đáp ứng những yếu tố sau đây:

a. Niệm Phật phải đúng cách:

- Niệm chắc thật nghĩa là miệng niệm, tai nghe, ý nghĩ phải là một. Miệng niệm Phật mà ý nghĩ lung tung (tán loạn), đó là miệng niệm Phật mà tâm không có Phật. Tổ Đức Nhuận nói: "Niệm như vậy, thét cho bể cuống họng cũng vô ích". Thật vậy, niệm như thế suốt đời cũng chẳng được gì.

- Niệm phải không xen tạp nghĩa là không hoài nghi, không mong cầu, không xen lẫn bất cứ gì khác (như không niệm Thích Ca, Dược Sư, Quán Âm..., cũng không có tham, sân, si, ngũ dục, lục trần, thế sự...). Không gián đoạn nghĩa là liên tục ngày đêm không có kẽ hở.

- Niệm phải chuyên nhất, nghĩa là phải tinh ròng duy nhứt một thứ, không thể nay niệm sáu chữ, mai niệm bốn chữ, mốt niệm sáu chữ, lúc niệm giọng (âm điệu) hải triều âm, lúc giọng người Việt, giọng người Hoa, giọng ca hát (ca niệm Phật), nay giọng của Thầy này, mai giọng của Thầy khác, lúc niệm trầm, lúc niệm bổng (thay đổi mãi), v.v... Trường hợp nghe máy vẫn phải nghe tiếng và giọng duy nhứt của chính mình mới thật tốt.

Phải chuyên nhất mới đúng nghĩa "Nhất hướng chuyên niệm" mà Kinh Vô Lượng Thọ đã dạy.

Có nhiều liên hữu mới nhập tâm mà luôn thay đổi giọng niệm (âm điệu) nên không tiến được mà bị khựng lại (đứng chựng), tệ hại hơn đôi khi còn bị tạm chìm. Trường hợp này muốn mau hồi phục (được nghe lại) tốt nhứt nên niệm lại giọng cũ (giọng lúc nhập tâm).

b. Buông xả ngũ dục lục trần, tự tư tự lợi, danh văn lợi dưỡng, tham, sân, si, mạn.

c. Đoạn ác, tu thiện, thanh tịnh hóa thân tâm. Đoạn ác tu thiện không gì hơn ăn chay và phóng sanh. Thanh tịnh hóa thân tâm không gì hơn giữ giới, niệm Phật. (Xin đọc thêm sách Niệm Phật Đạt Bất Niệm Tự Niệm Bảo Đảm Vãng Sanh).

d. Quyết chí tử hạ thủ công phu, lấy bốn chữ A Di Đà Phật hay sáu chữ Nam mô A Di Đà Phật làm bổn mạng của mình, ngày đêm dõng mãnh Lão thật niệm Phật, không mỏi mệt, quyết giữ cho đến giây phút cuối cùng của cuộc đời.
Bốn yếu quyết nói trên tùy mức độ thực hiện, có khả năng đưa hành giả đạt từ Nhập tâm đến Bất niệm tự niệm, (Thành một khối), Sự Nhất tâm bất loạn và Lý Nhất tâm bất loạn (Lý niệm Phật tam muội).

Trường hợp ông xã của liên hữu là cá biệt, muôn người chưa có một. Vị này có túc căn sâu dầy, niệm ít mà nhập tâm, ví như lu nước sắp đầy, chỉ nhỏ một ít là tràn trề.

Còn trường hợp của liên hữu là vì hoặc hành trì không đáp ứng bốn yếu quyết kể trên (không như pháp), hoặc túc căn cạn mỏng, ví như lu nước còn quá lưng. Vậy, hãy cố gắng thường xuyên nhỏ nước vào lu, nhất định có ngày phải đầy. Đã đầy thì quyết định phải tràn, dù không muốn tràn nó vẫn cứ tràn, tự nhiên đơn giản thế thôi.

Kính xin liên hữu hãy tự kiểm rồi sẽ biết mình phải làm gì?

Phụ chú: Kinh nghiệm thực tế cho thấy:

(1) Bản thân tôi ngu dốt, mò mẩm hành trì rất nhiều năm mà không kết quả. Cuối cùng biết cách (ý trì, lão thật niệm Phật), quyết tâm hành trì miên mật mười hai ngày đêm được nhập tâm.

(2) Có tám Phật tử, hai nam, sáu nữ ở các nơi (Việt Nam: Đà lạt; Mỹ: Colorado, Pennsylvania, Maryland) về tu Phật thất tại tu viện Tịnh Luật (Texas), nói chung, từ ngày 1 tháng 6 đến ngày 13 tháng 7 năm 2011. Có một ưu bà tắc lão thật niệm Phật (ý trì) hai ngày liền nhập tâm, hai ưu bà di hành trì ba ngày nhập tâm, còn lại năm vị kia nhập tâm vào ngày thứ tư và thứ năm sau khi nhập Phật thất.

Tóm lại, tất cả tám vị này đều nhập tâm trong vòng năm ngày lão thật niệm Phật. Đặc biệt trong số này có một vị nam đạt Bất Niệm Tự Niệm (nghe tiếng niệm Phật không xen tạp, không gián đoạn, suốt thời gian còn thức) sau bảy ngày miên mật hành trì.

Thời gian Phật thất còn lại là huân trưởng mức Nhập tâm và Bất Niệm Tự Niệm.

Đây là một thành quả hết sức khích lệ, chứng minh rằng hành trì như pháp (đáp ứng bốn yếu quyết đã trình bày trên) sẽ mang lại kết quả nhanh chóng không tưởng nghĩ nổi, và cũng là gương tốt cho hành giả chuyên tu Chánh hạnh, Chánh định nghiệp, Lão thật niệm Phật, tu Phật Thất tại tu viện Tịnh Luật (Texas).

Nam mô A Di Đà Phật.

7. Hỏi: Niệm A Di Đà Phật và niệm A Mi Đà Phật cách nào đúng?

Đáp: Hai cách đều được cả.

"Nam mô A Di Đà Phật" vốn là từ tiếng Phạn, đọc là "Namo Amitabha Buddha" được phiên âm, khác nhau như sau:

- Người Việt Nam niệm "Nam mô A Di Đà Phật". Cách niệm này đã có từ xưa.

- Người Trung Hoa niệm "Namo Amituofo".

- Người Nhật niệm "Namu Amida Butsu".

- Các dân tộc khác dĩ nhiên niệm khác nữa.

- Gần đây Hòa thượng Trí Tịnh cho rằng niệm chữ Di không được êm tai và bị trệ tiếng. Vì thế, Ngài sửa lại là "Mi" nên thành ra "Nam mô A Mi Đà Phật".

Nếu nói rằng niệm đúng nguyên âm tiếng Phạn "Namo Amitabha Buddha" mới được Đức Phật tiếp dẫn, thì người Nhật, người Hoa và nhiều dân tộc khác niệm không đúng âm ấy, chẳng lẽ Ngài không tiếp dẫn sao? Ngài có tha tâm thông, dù niệm cách nào Ngài đều biết cả, đâu phải Ngài chỉ nghe bằng thiên nhĩ thông không thôi!

Kinh dạy: "Linh tại ngã, bất linh tại ngã", nghĩa là linh thiêng, hiệu nghiệm hay không là do ở mình. Do ở mình có tin, có chí thành, có nhất tâm niệm hay không. Bằng chứng là từ xưa đến nay vô số người Việt, Trung Hoa, Nhật... đều được Phật tiếp dẫn vãng sanh Cực Lạc, chẳng sai.

Vì những lý lẽ trên, tôi nghĩ niệm "Nam mô A Di Đà Phật" hay "Nam mô A Mi Đà Phật" đều được cả, tùy theo đức tin và ý thích của mỗi người.

Nam mô A Di Đà Phật.

8. Hỏi: "Niệm Nam mô A Di Đà Phật" (sáu chữ) và niệm "A Di Đà Phật" (bốn chữ) cách nào tốt hơn?

Đáp:

a. Xét nghĩa:

- Danh hiệu là A Di Đà Phật.

- "Nam mô" là qui mạng, là quay về nương tựa.

b. Thực hành:

- Niệm "Nam mô A Di Đà Phật" (sáu chữ) là nói quay về nương tựa Phật A Di Đà, tỏ lòng thành kính. Niệm sáu chữ như vậy dễ cảm ứng hơn.

- Niệm "A Di Đà Phật" (bốn chữ), ngắn gọn dễ nhập tâm hơn. Còn việc thành kính là do ở tâm mình.
Liên Trì đại sư dạy đại chúng niệm "Nam mô A Di Đà Phật", còn Ngài thì niệm "A Di Đà Phật".

9. Hỏi: Niệm "Nam Mô" hoặc niệm "Mô Phật" hoặc niệm "Phật" mà có Tín và Nguyện có được vãng sanh Cực Lạc không?

Đáp: Có ba trường hợp như sau:

a. Người có tin sâu, nguyện thiết, thông suốt lý "một là tất cả, tất cả là một" thì trong lúc niệm "Mô Phật" hay niệm "Phật" tâm hành giả cho đó là "Nam mô A Di Đà Phật". Vậy là đủ Tín, Nguyện, Hạnh nên được vãng sanh.

b. Người tin không sâu, nguyện không thiết, nếu niệm nhóm từ trên, chúng không phải danh hiệu của Phật A Di Đà, không đúng bổn nguyện của Ngài, nên sẽ không được Ngài tiếp dẫn.

c. Niệm "Nam Mô" không đủ nghĩa (Nam mô là qui mạng, vậy thì qui mạng với ai mới được chứ?), không đúng bổn nguyện của Phật A Di Đà, nên không được vãng sanh.
Kính xin quý liên hữu hãy thận trọng!

Niệm Phật Thành Phật
Niệm Ma Thành Ma.
10. Hỏi: Niệm Phật và tu các công hạnh khác có cần hồi hướng không?

Đáp: Niệm Phật A Di Đà và tu tập hai hạnh chánh và phụ, thì không cần phải hồi hướng riêng biệt (Tuyển Trạch Bổn Nguyện Niệm Phật Tập, trang 25). Còn tu tập tạp hạnh, cần phải hồi hướng mới thành nghiệp vãng sanh.
Màn hình làm giấy.
Phím chữ làm bút.
Màu sắc làm mực.
Thường chép kinh Phật.

Hư không dầu có hao mòn,
Tâm này Phật Pháp vẫn còn sáng soi.
11. Hỏi: Hành giả Tịnh nghiệp có bắt buộc phải lần chuỗi để niệm Phật không?

Đáp: Không bắt buộc. Mục đích lần chuỗi là để:

- Cột tâm ý vào hạt chuỗi, không cho khởi vọng niệm, vọng tưởng.

- Đếm được số câu niệm Phật, cố niệm cho đủ số đã ấn định, tránh lười biếng giải đãi.

Vậy lần chuỗi rất cần cho những vị mới tập niệm Phật. Nhưng nếu không khéo, niệm lâu thành thói quen (tập khí) thì miệng niệm, tay lần chuỗi mà ý tự do phóng túng nghĩ tưởng lung tung đủ thứ, hoặc vì muốn cho đủ số, cố gắng niệm quá nhanh, miệng niệm lia lịa, tay lần chuỗi liền tù tì, mà tâm không bắt kịp tiếng.

Trường hợp này, miệng niệm Phật, tay lần chuỗi mà tâm không có Phật, gọi là hữu khẩu vô tâm. Tổ Đức Nhuận bảo: “Niệm như vậy thét cho bể cuống họng cũng vô ích”. Vậy lần chuỗi phải chân thật, tránh làm lấy lệ, biểu diễn. Mặt khác, ý theo dõi đếm số là bị phân tâm. Tay lần chuỗi, làm thân động, thân động thì tâm động theo (không an định). Vì những lý lẽ trên, hành giả niệm Phật lâu rồi không cần dùng chuỗi. Nếu muốn tính số câu Phật hiệu đã niệm, thì tốt hơn nên dùng đồng hồ tính thời gian đã niệm.

12. Hỏi: Con bận rộn quá, vừa phải đi làm, vừa phải lo việc nhà, cơm nước cho chồng cho con, làm sao có thì giờ rảnh để niệm Phật, thưa Thầy?

Đáp: Đối với người mới tập niệm Phật, hoặc người quá bận rộn, nên hành pháp Thập niệm như sau:

- Sớm mai thức dậy phục sức xong rồi, chắp tay hướng về phương Tây, niệm: "Nam mô A Di Đà Phật". Nên lấy hơi dài, niệm liên tiếp một hơi, kể là một niệm, niệm đủ mười hơi, là mười niệm. Nhưng đừng quá cố gắng, hơi dài hay ngắn, tiếng cao hay thấp, niệm chậm hay mau, đều tùy theo sức mình.

- Niệm xong, phát nguyện vắn tắt cầu sanh Tây phương Cực Lạc.

- Nếu có thờ Phật, nên thắp hương cúng Phật xong, đối trước Phật mà niệm. Khi vào và lui ra phải lễ Phật ba lạy.

- Chỉ nên niệm mười hơi, vượt quá mười hơi, dễ sanh bệnh.

Trên đây là định mức tối thiểu dành cho người mới tu tập (sơ cơ) và người quá bận rộn. Tiến sâu hơn, hành giả nên tập niệm Phật "thành thói quen cho đến trở nên ghiền" (sẽ đề cập ở phần kế tiếp). Ngày ngày chí thành khẩn thiết niệm Phật đều đặn, không thiếu sót (không bỏ sót ngày nào). Cộng thêm trợ hạnh ăn chay (ăn mặn đồng tội với sát sanh là tội cực ác) và phóng sanh (là cực thiện).

Hành trì suốt đời như vậy thì chắc chắn vãng sanh Cực Lạc quốc, đúng như lời đức Phật dạy: "Lánh ác (ăn chay), làm lành (phóng sanh), giữ tâm ý trong sạch (niệm Phật), tam nghiệp thanh tịnh đồng Phật vãng sanh Tây Phương".

13. Hỏi: Con cũng muốn niệm Phật cho nhiều, ngặt nỗi loay hoay công việc nhà suốt ngày, nên không nhớ niệm Phật. Vậy con phải làm sao?

Đáp: Nên tập thành thói quen, niệm Phật năm, mười câu trước và sau trong những trường hợp sau:

Ba bữa ăn (sáng, trưa, chiều), khi tắm, đi vệ sinh, sau khi thức dậy, trước khi đi ngủ, trước khi ra khỏi nhà, sau khi về đến nhà, hay làm những việc gì có tánh cách cố định như rửa chén, quét nhà, giặt quần áo.

Chỉ cần tập một tuần lễ là quen, càng nhiều cho đến trở thành thói quen càng tốt. Tập thành "ghiền" niệm Phật càng quý.

14. Hỏi: Niệm Phật sao cho mau tiến bộ, thưa Thầy?

Đáp:

a. Cần phải lập định khóa niệm Phật hằng ngày.

Ở chùa hoàn cảnh thuận lợi hơn nên dễ lập định khóa. Quý vị là cư sĩ tại gia thì tùy hoàn cảnh sinh hoạt hằng ngày, tùy khả năng sức lực, khả năng hành trì mà lập định khóa thích ứng.

Định khóa không nên quá ít (uổng phí thời gian) cũng không nên quá nhiều (khi có, khi không).

Chư Tổ dạy: "Định khóa có tiến, nhất định không có thoái. Thà chết chớ không bỏ qua định khóa". Lời dạy quý báu này, xin quý vị ghi nhớ cho!

Định khóa niệm Phật có ba phần: Tịnh tọa niệm Phật, Lễ bái niệm Phật và Kinh hành niệm Phật. Ba phần này, niệm Phật là chánh, tịnh tọa, lễ bái, kinh hành là phụ. Có nghĩa là danh hiệu Phật phải luôn luôn hiện tiền, không bị xen tạp, không bị gián đoạn.

b. Phải chuyên tu Chánh hạnh, Chánh định nghiệp, Lão thật niệm Phật (ý trì) hành trì đúng bốn yếu quyết đề cập ở câu đáp 6A.
15. Hỏi: Tịnh tọa niệm Phật như thế nào?

Đáp: Tịnh tọa niệm Phật: là ngồi mà niệm Phật.

Có nhiều cách ngồi:

- Toàn già (kiết già hay gọi là kim cang tọa): gác bàn chân trái lên đùi chân phải, gác bàn chân phải lên đùi bên trái, gót hai bàn chân đều phải sát vào bụng.

- Bán già, có hai cách:

* Hàng ma tọa: gác bàn chân phải lên đùi trái (như ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ tát).

* Kiết tường tọa: gác bàn chân trái lên đùi phải (như ngài Phổ Hiền Bồ tát). Tay: hai bàn tay để ngửa, bàn tay phải đặt lên trên bàn tay trái, vừa sát bụng, để nhẹ trên hai bàn chân, hai đầu ngón tay cái đâu lại (Tam muội Ấn).
Lưng, tay, chân đều đâu vào đó rồi, phải lay chuyển thân thể độ ba bốn lần cho được ung dung và phải giữ xương sống ngay thẳng, chẳng khác nào một cây cột đối với cái nhà. Nếu cột xiêu thì nhà đổ vậy.

Ngồi đúng cách giúp máu huyết lưu thông điều hòa, không bị tê nhức, thân yên chắc giúp tâm dễ an định.

Hành giả vì lý do bệnh tật, có thể ngồi trên ghế một cách bình thường vẫn được, vì rằng niệm Phật mới là chánh, còn ngồi là phụ.

Trong suốt thời gian tịnh tọa phải giữ câu Phật hiệu hiện tiền, nghĩa là niệm Phật không xen tạp, không gián đoạn. Niệm tốt nhất vẫn là ý trì và mặc trì.

16. Hỏi: Kinh hành niệm Phật như thế nào?

Đáp: Kinh hành phải đi theo chiều kim đồng hồ (từ phải sang trái). Kinh hành niệm Phật là vừa đi vừa niệm Phật. Niệm Phật là chánh, đi là phụ. Phải đi để thay đổi vị thế tránh mỏi mệt vì ngồi lâu, không phải đi diễn hành, tâm trụ nơi Phật hiệu chứ không phải trụ nơi bước chân.

Kinh hành thân quá động, tâm khó an định lắm, nên thời gian dành cho kinh hành ngắn nhất.

Suốt thời gian định khóa, bất luận là bao lâu, từ khi bắt đầu thắp nhang, đến khi kết thúc bằng ba tiếng chuông, phải niệm Phật không cho xen tạp và không gián đoạn, nghĩa là ngoài Thánh hiệu A Di Đà, không có bất cứ cái gì khác như định nghĩa trên.

17. Hỏi: Lễ bái trì danh như thế nào?

Đáp: Lễ bái niệm Phật cũng gọi là lễ bái trì danh. Lạy chậm rãi, khoan thai, đúng cách. Tốt nhất là lạy theo sự hướng dẫn của Pháp sư Đạo Chứng chỉ rõ trong sách "Niệm Phật chuyển hóa tế bào ung thư".
"Lễ Phật một lạy tội diệt Hằng sa". Lạy càng nhiều càng tốt, nhưng hành giả chuyên tu thì phải ưu tiên giữ câu Phật hiệu hằng hiện tiền (luôn luôn, không xen tạp, không gián đoạn). "Niệm Phật một câu phước sanh vô lượng".

Tùy sức, không nên lạy một lần quá nhiều, sẽ bị mỏi mệt, dễ chán nản. Lạy vừa sức mình, nhiều lần trong ngày vẫn tốt hơn.

18. Hỏi: Con đi làm ở xí nghiệp về còn phải lo việc nhà, quá bận rộn nên con không có thì giờ để niệm Phật nhiều theo định khóa. Vậy con phải làm sao để được nhập tâm?

Đáp: Mục đích của định khóa là giúp cho hành giả tránh lười biếng, giải đãi, tinh tấn hành trì mau thành tựu chí nguyện. Trường hợp liên hữu quá bận rộn thì nên:

a. Áp dụng pháp "Thập niệm" và tập niệm Phật thành thói quen như đã nêu trên câu đáp số mười hai (12A) và mười ba (13A).

b. Thực hiện lời dạy của Hám Sơn đại sư: "Mỗi ngày đem một câu A Di Đà Phật đặt ngang ngực, niệm niệm chẳng quên, tâm tâm chẳng mê. Với hết thảy sự đời chẳng nghĩ ngợi gì đến. Chỉ lấy một câu Phật hiệu làm mạng sống chính mình. Cắn chặt hàm răng quyết chẳng buông bỏ, thậm chí ăn uống, cử động, đi, đứng, nằm, ngồi, một tiếng niệm Phật này, thời thời hiện tiền.[/list]Nếu gặp cảnh giới thuận, nghịch, vui, giận, phiền não, lúc tâm chẳng yên, bèn đem một tiếng niệm Phật khởi lên, liền thấy phiền não ngay khi ấy bị tiêu diệt. Bởi niệm niệm phiền não là gốc sanh tử. Nay dùng niệm Phật tiêu diệt phiền não, chính là Phật độ nỗi khổ sanh tử. Nếu niệm Phật tiêu được phiền não, liền có thể ra khỏi sanh tử, không có pháp gì khác. Nếu niệm Phật đến khi làm chủ được phiền não, thì làm chủ được mộng mị. Nếu trong mộng đã kiểm soát được, thì trong khi bệnh khổ cũng làm chủ được. Nếu đã làm chủ được (bản thân) trong khi bệnh tật, thì lúc mạng lâm chung, liền biết chỗ sanh về.

Sự này chẳng khó làm, chỉ cần làm với một niệm sanh tử, tâm khẩn thiết. Chỉ cần dựa vào một mình tiếng niệm Phật, không có suy nghĩ gì khác. Lâu ngày thuần thục, tự nhiên được đại an lạc, được đại thọ dụng".

19. Hỏi: Con chưa nhập tâm, tham dự nhiều đạo tràng niệm Phật bốn chữ, sáu chữ, âm điệu khác nhau có gì trở ngại không?

Đáp: Trên kinh nghiệm thực tế mà nói, huân tập cách nào một cách chuyên nhứt sẽ dễ nhập tâm hơn (xin đọc câu đáp 6A).

20. Hỏi: Con để máy niệm Phật suốt đêm ở phòng ngủ, có tội không Thầy?

Đáp: Tinh tấn được vậy càng tốt, đáng khen, không tội lỗi gì cả.
Màn hình làm giấy.
Phím chữ làm bút.
Màu sắc làm mực.
Thường chép kinh Phật.

Hư không dầu có hao mòn,
Tâm này Phật Pháp vẫn còn sáng soi
21. Hỏi: Thường ngày vào định khóa niệm Phật rất hứng thú, nhưng thỉnh thoảng lại cảm thấy niệm Phật một cách lạt lẽo không vô, vậy là sao?

Đáp: Trường hợp này nên tự xét coi có phải do:

a. Bản tánh biếng nhác, giải đãi khởi dậy, vậy thì hãy cố gắng tinh tấn hơn.

b. Sinh lý (thân thể), quá mỏi mệt vì công việc hàng ngày, hoặc tâm lý (tinh thần) bất an, vì đang lo nghĩ, tính toán, lo sợ một việc gì đó. Vậy thì không nên ép xác, mà nghỉ xả hơi cho khỏe khoắn và thanh thản. Sau đó mới tiếp tục hành trì.
22. Hỏi: Con vừa giải phẫu, quì đứng không được, vậy con ngồi lễ Phật được không, thưa Thầy?

Đáp: Được, liên hữu ngồi trước bàn thờ Phật, đem hết lòng thành kính nhìn Phật, lễ Phật, nhớ giữ câu Phật hiệu luôn hiện tiền, không để bị gián đoạn.

23. Hỏi: Con vừa giải phẫu ngồi, quì, đứng không được, chỉ nằm thôi. Con nhớ Phật, con niệm Phật mà còn muốn lạy Phật nữa, vậy con phải làm sao, thưa Thầy?

Đáp: Xin có mấy điều như sau:

a. Tốt lắm, sức khoẻ liên hữu yếu như thế, mà liên hữu nhớ Phật, niệm Phật còn muốn lễ Phật, thật hiếm có, trăm ngàn người chưa có một. Đây là guơng tốt cho hàng Phật tử chúng ta. Tôi thành kính ngợi khen, tán thán đạo tâm của liên hữu, đồng thời nguyện cầu Đức Từ Phụ A Di Đà cùng chư Phật mười phương gia hộ cho liên hữu sớm hồi phục sức khỏe để tinh tấn niệm Phật, vãng sanh Cực Lạc, thành Phật, độ chúng sanh theo đúng chí nguyện.

b. Liên hữu có thể nằm, mắt nhìn Phật, đem hết lòng thành, tưởng như đang lễ Phật, là được rồi. Đó gọi là dùng tâm lễ Phật, nhớ giữ câu Phật hiệu luôn hiện tiền không bị gián đoạn.
24. Hỏi: Hôn trầm là gì, phải đối trị cách nào?

Đáp: Hôn trầm là tâm mờ mịt như buồn ngủ. Hôn trầm có hai loại:

a. Tâm thức tự nhiên lờ mờ, tuy còn biết niệm Phật, nhưng không sáng tỉnh, thỉnh thoảng đầu bị gục. Đây là loại hôn trầm do khí hỏa hư trong người thăng lên, lấn áp tinh thần.

b. Tâm có vẻ mỏi mệt, khởi niệm gượng gạo, thỉnh thoảng bị ngáp hơi, ngồi lâu muốn ngủ. Trạng thái này diễn biến càng lúc càng nhiều. Đây là loại hôn trầm do thiếu hăng hái và thiếu tinh tấn.
Đối trị: hãy thay đổi vị thế, phương cách, hoặc tốc độ như:

- Đang tịnh tọa thì đổi kinh hành hay lễ Phật (đổi vị thế).

- Đang niệm thầm thì đổi niệm ra tiếng (đổi phương cách).

- Đang niệm thầm hay niệm ra tiếng, nếu không muốn đổi vị thế, và phương cách thì gia tăng tốc độ (niệm nhanh hơn trước, đổi tốc độ).

Nam Mô A Di Đà Phật

25. Hỏi: Con vọng niệm quá nhiều làm sao diệt trừ, thưa Thầy?

Đáp: Vọng niệm do vọng tâm sanh, vọng tâm từ chân tâm biến hiện. Vậy muốn diệt vọng niệm là phải diệt chân tâm, mà chân tâm thường hằng bất biến, bất sanh bất diệt thì làm sao diệt được? Cho nên phải nói là chế phục, hay chuyển hóa mới đúng.

Liên tông Thập nhị Tổ dạy: "Chỉ có chư Phật mới vô niệm còn từ Đẳng giác Bồ tát trở xuống đều hữu niệm". "Hữu niệm" nghĩa là còn vọng niệm, nhưng vọng niệm của quí Ngài vi tế. Phàm phu chúng mình thì vọng niệm thô, và minh xác rằng không một ai tránh khỏi (vọng niệm).

Liên tông Bát Tổ Liên Trì đại sư dạy: "Vọng niệm là bệnh, niệm Phật là thuốc". Vậy muốn hết bệnh phải uống thuốc, muốn trừ vọng niệm phải niệm Phật.

Chư Tổ đều nói: "Niệm một câu Phật hiệu, dẹp trừ muôn vọng niệm".

Chư cổ đức cũng dạy: "Chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm". Nghĩa là phàm phu chúng ta niệm khởi là chuyện dĩ nhiên (không một ai tránh khỏi như đã nói trên), thì có gì đâu mà phải lo sợ (không cần quan tâm đến nó nữa). Điều đáng lo sợ là chúng ta giác chậm (quên, không nhớ, không niệm Phật) mà thôi.

Tóm lại, vọng niệm tự khởi không gì đáng lo sợ (không quan tâm, để ý tới nó nữa), một mực niệm Phật là xong (vọng niệm tự dứt, vì tâm vô nhị dụng). Niệm Phật càng sâu (nhiều) vọng niệm tự thưa bớt dần. Niệm Phật đến Lý nhứt tâm bất loạn thì vọng niệm thô không còn khởi dậy được nữa.

26. Hỏi: Thầy nói vậy, nhưng ngay lúc miệng con đang niệm Phật, vọng niệm vẫn khởi dậy?

Đáp: Đây là bệnh chung của hành giả Tịnh độ. Miệng niệm Phật lâu ngày thành thói quen, miệng cứ niệm Phật (theo thói quen) mà tâm ý tự do rong ruổi đông tây, không có niệm Phật, nên vọng niệm mới khởi dậy.

Trường hợp này gọi là hữu khẩu vô tâm. Tổ Đức Nhuận nói: "Niệm Phật như vậy (hữu khẩu vô tâm) thét cho bể cuống họng cũng vô ích". Bởi vậy cho nên lắm người niệm Phật đến nay đã mấy chục năm rồi mà vẫn trơ trơ, không thấy có lợi ích gì cả, đôi khi còn tăng thêm phiền não. Hoà thượng Trí Tịnh dạy: "Niệm Phật phải niệm rành rẽ, rõ ràng. Rành rẽ tức là từng tiếng, từng câu không có lộn lạo. Rõ ràng nghĩa là hễ niệm Nam là rõ tiếng Nam, Mô rõ tiếng Mô, A rõ tiếng A, cho đến Phật thì rõ tiếng Phật không có trại giọng (không thêm, không bớt dấu sắc, dấu huyền gì cả). Tiếng niệm Phật cùng với cái tâm của mình phải hiệp khắn nhau".

Nghĩa là cái tâm phải duyên theo tiếng, cái tiếng phải nằm trong cái tâm. Tâm tiếng phải là một. Hay nói tiếng ở đâu tâm phải ở đó. Tiếng niệm Phật, tâm phải ở câu Phật hiệu. Được vậy khi niệm Phật nhất định không có vọng niệm. Vì tâm vô nhị dụng (tâm một lúc không thể làm hai việc). Tâm đang niệm Phật thì đâu có thể niệm gì khác.

27. Hỏi: Con đã thực hành như vậy mà vọng niệm vẫn khởi lên liên tục, con cố gắng lắm nhưng đè nó không được. Vậy phải làm sao, thưa Thầy?

Đáp: Chư Tổ cũng dạy: "vọng niệm là nghiệp". Vậy liên hữu cần thực hành hai phương cách sau:

a. Hằng ngày thường lễ Phật A Di Đà (Di Đà sám) để sám trừ nghiệp chướng.

b. Thực hành pháp "Sổ châu trì danh". Phương pháp này còn gọi là lần chuỗi niệm Phật. Tay lần một hạt chuỗi, miệng niệm một câu danh hiệu Phật. Sau quen rồi, miệng niệm hai, ba câu tăng dần lên cho đến mười câu lần một hạt chuỗi. Cách này giúp cột tâm ý vào hạt chuỗi, tâm ý lo nhớ lần chuỗi, nên không khởi vọng niệm. Cách này cần ghi số mỗi thời, mỗi ngày bao nhiêu câu. Lấy con số này làm định mức để mỗi thời, mỗi ngày phải cố gắng niệm cho đủ định số, tránh được bệnh lười biếng giải đãi. Nhưng cần nhớ rằng, đừng vì muốn đủ số mà hấp tấp vội vàng, niệm lấy có, niệm cho đủ số, mà cần phải niệm rành rẽ, rõ ràng như đã nói trước đây. Người xưa nói: "Đa hư bất như thiểu thật", nghĩa là nhiều mà hư rỗng, không bằng ít mà chắc thật. Cách này được Liên tông Cửu Tổ Ngẫu Ích đại sư tán thán là hiệu quả cao, nếu niệm đúng cách, đúng mức, cùng cực sẽ được "nhập tâm".
28. Hỏi: Con lần chuỗi niệm Phật cả chục năm rồi, thế mà vọng niệm vẫn tuôn trào không dứt, là sao thưa Thầy?

Đáp: Vì không khéo nhiếp tâm, miệng niệm Phật, tay lần chuỗi lâu ngày thành thói quen, không cần dụng ý nữa, nên ý tự do phóng túng, rong ruổi đông tây. Vọng niệm thừa cơ hội này khởi dậy.

Vậy, nên hành pháp "Thập niệm ký số", pháp này giúp nhiếp tâm cao hơn. Liên tông Thập tam Tổ Ấn Quang đại sư đã dạy trong quyển Ấn Quang Đại Sư Gia Ngôn Lục như sau: "Niệm từng câu, đếm số từng câu từ một đến mười. Xong, đếm lại từ một...". Ví dụ: A Di Đà Phật một, A Di Đà Phật hai, A Di Đà Phật ba...(đếm đến mười rồi trở lại đếm một, hai, ba...). Trường hợp đếm nửa chừng bị lầm lẫn số, nếu chưa đến mười thì bỏ, khởi đếm lại từ đầu.

29. Hỏi: Con thực hành pháp Thập niệm ký số, ban đầu có kết quả tốt, thời gian sau vọng niệm vẫn dậy khởi, nhưng ít hơn trước. Vậy là sao thưa Thầy?

Đáp: Ban đầu liên hữu chú ý, cột tâm ý vào danh hiệu Phật và cố nhớ để đếm không cho lộn số. Được vậy, vọng niệm không khởi lên được (Tâm vô nhị dụng). Nhưng khi tập lâu thành thói quen (tập khí) miệng tự động niệm và đếm số, không cần chú tâm, tâm lại rong ruổi, khởi vọng niệm nữa. Còn có cách thứ hai, đếm số từ một đến mười rồi đếm ngược lại từ mười đến một. Đếm nửa chừng lộn số thì phải bỏ, đếm lại từ đầu.

30. Hỏi: Hành pháp Thập niệm ký số, đếm xuôi rồi đếm ngược nói trên có kết quả tốt, nhưng thời gian sau vọng niệm vẫn dậy khởi là sao, thưa Thầy?

Đáp: Vì ban đầu nhiếp tâm được nên không vọng niệm. Sau thành thói quen (tập khí) như nói lần trước, miệng tự động niệm và đếm số xuôi ngược, không cần chú tâm nữa, nên tâm rong ruổi khắp nơi, vọng niệm dậy khởi. Có cách thứ ba: mở máy niệm Phật, nhịp độ vừa phải không quá chậm, lắng lòng nghe và niệm theo từng chữ, từng câu, một cách rành rẽ, rõ ràng, sẽ dứt bặt vọng niệm.
Màn hình làm giấy.
Phím chữ làm bút.
Màu sắc làm mực.
Thường chép kinh Phật.

Hư không dầu có hao mòn,
Tâm này Phật Pháp vẫn còn sáng soi
31. Hỏi: Cách thứ ba rất tốt nhưng rất tiếc là chỉ niệm được chừng bốn mươi phút hoặc sáu mươi phút là mỏi mệt. Khi đó niệm theo không nổi thì vọng niệm lại tái khởi dậy. Vậy con phải làm sao, thưa Thầy?

Đáp: Có cách thứ tư, tự làm hay nhờ bạn làm giúp, hoặc tôi sẽ làm cho một CD thường hoặc CD-MP3 giọng niệm của liên hữu. Niệm một câu ngưng một chút, niệm câu thứ hai ngưng một chút, tiếp niệm câu thứ ba... nghĩa là niệm không liên tục có gián đoạn. Mở máy, bình tĩnh, lắng lòng nghe máy niệm. Máy ngưng niệm, mình niệm, khi máy niệm mình lắng lòng nghe. Luân phiên niệm như vậy mình đủ sức niệm hai, ba, bốn, năm giờ liên tục mà không mệt mỏi.

Ban đầu máy niệm một câu, mình niệm một câu, sau quen dần, máy niệm một câu, mình niệm hai, ba câu. Tập niệm từ thấp lên cao dần dần như sau: ban đầu mình niệm lớn tiếng (cao thanh trì), khi quen, chuyển niệm nhỏ tiếng (đê thanh trì), khá quen chuyển niệm thầm có nhép môi (kim cang trì), xong tiến lên niệm thầm không nhép môi (mặc trì), cuối cùng tiến đến niệm bằng ý (ý trì).

Nên viết lớn, đậm nét bốn chữ A Di Đà Phật (hoặc sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật) trên tờ giấy như sau:

A
DI
ĐÀ
PHẬT

Để Thánh hiệu này trước mặt (vừa tầm mắt), mắt nhìn bốn chữ A Di Đà Phật trong suốt thời gian nghe máy niệm và mình niệm, mục đích là nhiếp nhãn căn (nhìn thánh hiệu để không nhìn cái gì khác, đơn giản vậy thôi). Không cần phải tập trung tư tưởng để chú ý quán sát bốn chữ này (nếu chú ý quan sát là lạc vào quán tưởng rồi).

Lưu ý: Tiếng máy niệm và tiếng mình niệm phải liên tục như giòng nước chảy, không có kẽ hở (vì có kẽ hở thì vọng niệm sẽ dậy khởi).

Không bắt buộc phải ngồi trước bàn thờ Phật, phải ngồi kiết già hay bán già, mà nên ngồi thoải mái trên ghế, để có thể ngồi năm giờ liền không mệt mỏi.

Mặt khác, ban đêm ngủ, hoặc đang làm việc gì khác, (ngoài thời khóa) nên để máy niệm Phật suốt thời gian. Trường hợp này tiếng niệm Phật (của máy) phải liên tục, không gián đoạn.

Thực hiện được như vậy, thân, khẩu, ý niệm Phật năm giờ liên tục mà không có vọng niệm, là đắc "chỉ" của Thiền, là đắc "tịnh" của Tịnh Độ, huân tập nhiều lần như vậy, thì làm sao mà không nhập tâm được chứ?

Tám vị nhập Phật thất tại tu viện Tịnh Luật áp dụng cách niệm Phật này mà được nhập tâm trong vòng bảy ngày hành trì (nêu trong câu đáp 6A).
Cách niệm Phật theo máy.

Hát CD niệm Phật có gián đoạn và thực tập như sau:

a. Bình tĩnh, lắng lòng nghe máy hát (niệm) một câu, máy ngưng, mình niệm một câu; máy hát câu kế tiếp, máy ngưng, mình niệm một câu nữa. Máy và mình luân phiên niệm như vậy thời gian ngắn vài ba phút hay dài hơn tùy người.

b. Khi niệm như vậy quen rồi, thì khi nghe máy hát (niệm) đến chữ Đà thì mình bắt đầu niệm A Di Đà Phật. Như vậy để khi máy hát chữ Phật là mình đã niệm chữ A, mục đích là hai chữ Phật và chữ A nối liền nhau không có kẽ hở.

c. Mình niệm sao cho chữ Phật của mình cũng nối liền với chữ A của máy, nghĩa là cũng không có kẽ hở.

Chú ý: khi niệm quen rồi, mình linh động niệm ngắn hơn hay dài hơn bình thường một chút để câu Phật hiệu mà mình niệm không có kẽ hở đầu và cuối câu.

d. Các câu Niệm Phật của mình và máy nối liền nhau không có kẽ hở thì vọng niệm không khởi dậy được (Tâm vô nhị dụng nghĩa là Tâm một lúc không thể làm hai việc. Tâm bận niệm Phật thì tuyệt đối không có niệm gì khác, không có vọng niệm). Nhờ vậy nên có thể niệm năm giờ liên tục, mà không có một vọng niệm nào cả. Đây là yếu tố đưa đến Nhập tâm.

e. Khi máy và mình niệm Phật, lỗ tai lắng nghe, miệng niệm hoặc ý niệm (ý trì), ý theo dõi tiếng niệm này. Đây là nhiếp nhĩ căn, thiệt căn và ý căn.

f. Khi máy niệm và mình niệm, mắt nhìn vào bốn chữ A Di Đà Phật để trước mặt, đây là nhiếp nhãn căn vào Phật hiệu. (Nhớ là nhìn chứ không phải quán).

g. Thân ngồi ngay ngắn chỉnh tề đây là nhiếp thân căn vào cảnh giới Phật.

h. Mũi ngữi mùi hương cúng Phật đây là nhiếp tỷ căn vào cảnh giới Phật.

i. Thực hiện được như vậy là đã nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm nối tiếp, theo đúng lời chỉ dạy trong Kinh Lăng Nghiêm, thì làm sao mà không nhập tâm được chứ?

j. Hành giả nên đọc kỹ, cố gắng tập sẽ quen dần, có gì không rõ hãy điện thoại cho tôi, để được góp ý thêm.

Quyết định phải thành tựu Tịnh nghiệp,
Vãng sanh Cực Lạc,
Thành Phật, Độ chúng sanh.

32. Hỏi: Thỉnh thoảng con bị như sau: Trong lúc đang ngồi niệm Phật, miệng niệm, tai nghe, ý ghi nhận rành rẽ, rõ ràng từng chữ từng câu Phật hiệu, tâm con rất sáng suốt. Bỗng dưng tâm con sinh khởi các ý tưỏng vọng động song hành với câu Phật hiệu. Sao kỳ lạ vậy, có hại không, thưa Thầy?

Đáp: Thông thường khi vọng tưởng, tạp niệm dậy khởi thì câu Phật hiệu bị mất. Đó gọi là tán loạn (bệnh). Đằng này cả hai song hành, đó gọi là sức phản ứng của chủng tử nghiệp, chứ không phải bệnh. Nguyên nhân như sau: Theo Duy thức học, trong tạng thức chứa lẫn lộn những chủng tử lành (vô lậu), dữ (hữu lậu). Khi niệm Phật là ta huân tập chủng tử công đức vô lậu, nó chuyển hoá những chủng tử hữu lậu, khiến những chủng tử này phản ứng, khởi hiện hành. Hiện hành huân tập chủng tử, chủng tử khởi hiện hành (mà mình không quan tâm đến nó) mỗi lần yếu đi một ít, nhiều lần chúng bị tiêu mất luôn.

Tóm lại, hiện tượng này chứng tỏ liên hữu công phu đắc lực, đáng mừng, có lợi chứ không hại gì cả.

33. Hỏi: Phan duyên là gì, đối trị cách nào?

Đáp: Phan duyên là thói quen, tâm ưa rong ruổi bên ngoài. Đây cũng là một loại động loạn, nhưng có điều nó lặng lẽ, như khi ngồi niệm Phật mà tai lại lắng nghe tiếng người ngoài nói chuyện hoặc mắt theo dõi cảnh vật xung quanh... tức là năm căn duyên theo năm trần cảnh. Đây là nguyên nhân làm công phu bị gián đoạn và mất chánh niệm. Hành giả không biết, tưởng mình không vọng niệm rồi không lo đoạn trừ, lâu ngày thành thói quen nặng, ngồi niệm Phật mà chỉ huân tập vào tâm những chuyện vô ích bên ngoài. Người này tu nhiều mà tâm không định.

Đối trị: Khi niệm Phật, có thấy hoặc nghe gì, thì làm ngơ như mù, như điếc, xả bỏ mọi cảnh trần, tập trung tâm ý (nhiếp các căn), miệng niệm, tai nghe, ý ghi nhận rành rẽ, rõ ràng từng chữ, từng câu Phật hiệu (phản văn trì danh).

Không Có Thành Tựu Nào Mà Thiếu Tinh Tấn.

34. Hỏi: Vô ký là gì, đối trị cách nào?

Đáp: Vô ký là thái cực đối lập với phan duyên, tức là tâm thức biến mất, hành giả ngồi niệm Phật đến một lúc tự nhiên không nhận biết gì cả, quên niệm Phật, như người chết. Trạng thái này có khi trải qua hàng giờ. Nếu không biết, lại cho là được định tâm, đắm thích theo nó, khiến uổng phí thì giờ, vì chỉ gieo trồng chủng tử gỗ đá vô tri mà thôi.

Đối trị: Tập trung tâm ý, niệm thầm danh hiệu Phật bằng kim cang trì, mặc trì hoặc ý trì (ý trì là hiệu quả nhất). Vì ý thức bị chìm mất, bây giờ bắt ý thức phải làm việc (niệm Phật) và kiểm soát nó, đương nhiên nó phải hiện tiền (không chìm mất).

35. Hỏi: Kim cang trì và mặc trì là sao, thưa Thầy?

Đáp: Niệm Phật ra tiếng lớn gọi là cao thanh trì, niệm ra tiếng nhỏ là đê thanh trì. Kim cang trì là niệm thầm (không ra tiếng) mà còn nhép môi. Mặc trì là niệm thầm hoàn toàn không nhép môi. Bốn cách này cao thanh trì, đê thanh trì, kim cang trì, mặc trì đều niệm bằng miệng, gọi là khẩu trì. Hiệu quả của khẩu trì không cao bằng ý trì.

36. Hỏi: Tại sao ý trì hiệu quả cao?

Đáp: Ý trì là niệm bằng ý, không phải bằng miệng (khẩu trì). Dùng ý để niệm Phật (không phảỉ nghĩ, tưởng hay biết, mà là niệm).

Lý do ý trì mang hiệu quả cao:

- Chư Tổ dạy: "Tâm vô nhị dụng", nghĩa là tâm không thể làm hai việc cùng một lúc. Khi tâm lo nghĩ một việc nào khác, thì tâm không thể niệm Phật được.

- Kinh Pháp Cú dạy: "Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm là chủ, tâm tạo tác tất cả. Nếu đem tâm ô nhiễm tạo nghiệp nói năng hoặc hành động, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến, như bánh xe lăn theo chân con vật kéo xe. Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm là chủ, tâm tạo tác tất cả. Nếu đem tâm thanh tịnh tạo nghiệp nói năng hoặc hành động, sự vui sẽ theo nghiệp kéo đến như bóng theo hình".

- Theo Duy Thức học: "Ý thức công vi thủ, tội vi khôi", nghĩa là về công, ý thức đứng đầu, về tội thì ý thức cũng đứng đầu. Làm ác do ý thức, làm thiện cũng do ý thức. Thí dụ: Ý thức muốn đánh, muốn đá thì tay mới đánh, chân mới đá. Ý thức muốn chửi mắng, miệng mới chửi mắng,... Sa địa ngục cũng do ý thức lôi kéo vào. Vãng sanh Cực Lạc cũng do ý thức đưa đẩy. Làm ma hay làm Phật đều do ý thức.

Bằng những lý lẽ trên. Với ý trì, ta bắt ý thức phải niệm Phật cầu vãng sanh Cực Lạc để thành Phật, thật đúng là diệu pháp. Khi ý thức niệm Phật, như đã nói ở trên, thì ý thức không còn làm được việc gì khác, dứt vọng niệm, dừng vọng tưởng, mà câu Phật hiệu luôn hiện tiền.

Trong suốt thời gian ý trì, không có vọng niệm, vọng tưởng, đúng là pháp tu chỉ của Thiền tông. Lại lắng nghe rành rẽ, rõ ràng danh hiệu Phật, đó là pháp tu quán của Thiền tông. Như vậy ý trì không khác chỉ quán song tu của Thiền.

Nói rộng hơn, niệm Phật bằng ý để chuyển ý thức thành Diệu quan sát trí, sau đó chuyển Mạt na thức thành Bình đẳng tánh trí, đó là điều kiện thiết yếu để phá ngã chấp, pháp chấp, hầu trở về với chân tâm thanh tịnh bình đẳng của chính mình.

37. Hỏi: Cách tập ý trì như thế nào?

Đáp: Tập ý trì có hai cách:

a. Cách thứ nhất:

- Bước 1: Dùng máy (cassette hay chip) hát niệm Phật A Di Đà (6 chữ hay 4 chữ tùy ý thích). Hành giả tịnh tọa, lắng lòng nghe (bằng nhĩ căn tức lỗ tai), dùng ý thức nghĩ, ghi nhận, đưa vào tâm từng chữ, từng câu rành rẽ, rõ ràng theo đúng nhịp điệu hát của máy. Đừng để bị xen tạp và gián đoạn.

Thực tập vài tiếng đồng hồ hoặc vài ba ngày, tự nhiên thuần thục.

Nên nhớ: Khi tập cách này phải xả, bỏ quên, không quan tâm đến cách niệm trước đây.

Cách này quá dễ, ai ai cũng thực hành được, nhưng có khuyết điểm là tâm còn phan duyên theo tiếng bên ngoài, gọi là hướng ngoại.

- Bước 2: Không dùng máy nữa, mà dùng bốn hay sáu ngón tay để nhịp. Hành giả tịnh tọa, lắng lòng, dùng ngón tay nhịp, dùng ý thức để nghĩ, niệm từng chữ một cách rành rẽ, rõ ràng, theo từng nhịp của ngón tay.

Thực tập vài tiếng đồng hồ hoặc vài ba ngày, tự nhiên thuần thục.

- Bước 3: Không dùng máy và ngón tay.

Hành giả tịnh tọa, lắng lòng, tự nghĩ và tự niệm rành rẽ, rõ ràng từng chữ, từng câu thánh hiệu A Di Đà. (Có thể chậm, niệm ít câu hơn mình đã niệm trước đây, không thành vấn đề, luyện tập thuần thục sẽ nhanh và nhiều câu hơn trước nhiều, mà khỏe khoắn không mệt như trước nữa).

Lúc đầu biết tâm mình đang niệm Phật A Di Đà, chứ chưa nghe tiếng. Quen dần, thuần thục sẽ nghe rành rẽ, rõ ràng, từng tiếng (từng chữ), từng câu thánh hiệu A Di Đà. Cách này là nghe bằng tánh nghe (không phải bằng nhĩ căn, tức lỗ tai, nhĩ thức). Tình trạng này gọi là "Phản văn, văn Phật hiệu".

Người (sơ cơ) mới thực hành ý trì, chỉ năm hoặc mười phút là mệt, niệm không được nữa. Lúc đó có thể thay đổi niệm bằng miệng (Kim cang trì hay mặc trì, là niệm thầm, hay niệm ra tiếng) thời gian ngắn (5, 10 phút) rồi lại tiếp tục niệm bằng ý (ý trì) luân phiên thay đổi như thế nhiều lần, lâu ngày ý trì sẽ thuần thục (hoàn toàn niệm bằng ý).

b. Cách thứ hai:

- Bước 1: Viết bốn chữ hay sáu chữ thánh hiệu A Di Đà lên bảng hay lên giấy. Kinh nghiệm cho thấy viết chữ thành một hàng ngang khó tập hơn viết từng chữ theo hàng dọc đứng như sau:

A
DI
ĐÀ
PHẬT

(1) Hoặc hành giả tịnh tọa, lắng lòng, mắt nhìn thánh hiệu A Di Đà Phật (4 hay 6 chữ) thay vì đọc bằng miệng thì nghĩ, đọc bằng ý (ý thức).

(2) Hoặc mở máy cassette hát bốn chữ, tai nghe từng tiếng, mắt nhìn từng chữ, đồng thời ý niệm theo nhịp nhàng từng tiếng, từng chữ thánh hiệu A Di Đà.

Thực tập vài tiếng đồng hồ hoặc vài ba ngày tự nhiên thuần thục.

- Bước 2: Không dùng máy để nghe, mắt không nhìn bảng hay giấy có viết thánh hiệu A Di Đà nữa, mà hành giả tịnh tọa, lắng lòng, tự nghĩ và tự niệm y như bước ba, cách thứ nhất.

Thực tập vài tiếng đồng hồ hoặc vài ba ngày tự nhiên thuần thục.

Nói rõ hơn, khi dùng ý nghĩ từng tiếng, từng chữ, từng câu Thánh hiệu A Di Đà Phật, là gieo (huân tập) hạt giống (chủng tử) Phật vào tạng thức. Huân trưởng lâu ngày chày tháng, hạt giống vô lậu sẽ lớn mạnh dần dần, và khởi hiện hành qua nhiều trạng thái, từ thấp đến cao như sau:

- Giúp ta nhớ niệm Phật nhiều hơn.

- Giúp ta nghe thành tiếng (bằng tánh nghe).

- Thay vì ý thức mà tạng thức tự niệm (nhập tâm).

Ưu điểm của cách này là: không hao hơi, tổn khí, đúng như pháp, dứt trừ được vọng niệm, vọng tưởng, mau nhập tâm, đạt Bất niệm tự niệm. Nhưng khuyết điểm là khó thực hiện.
Kinh nghiệm cho thấy, khi thực sự buông xả được vạn duyên, thì:

(1) Nếu hành giả ý trì được sáu mươi phút liên tục không gián đoạn, (suốt thời gian này tuyệt đối không có vọng niệm) mỗi ngày hai lần, một tuần lễ sau là hoàn toàn có khả năng sẽ được nhập tâm.

(2) Nếu hành giả ý trì được năm giờ liên tục không xen tạp không gián đoạn (không có vọng niệm) mỗi ngày hai lần, thì hai ngày nhập tâm.

(3) Đã có nhiều hành giả tại gia và xuất gia về Tịnh Luật tu viện, nhập thất từ hai đến bốn ngày liền "nhập tâm".

Bởi vậy nên nói: "Nhập tâm không khó, khó ở Quyết tâm".

Quyết tâm điều gì? Quyết tâm buông xả được vạn duyên và niệm Phật đúng cách, niệm không xen tạp, không gián đoạn thời gian dài, đơn giản thế thôi, kính xin quý hành giả luôn ghi nhớ (nằm lòng) bí quyết này.

38. Hỏi: Sao con ý trì mà bị nhức đầu và đau quai hàm quá, thưa Thầy?

Đáp: Niệm Phật mà bị đau xương quai hàm thì rõ ràng là niệm bằng miệng (khẩu trì) đâu phải ý trì. Ý trì là niệm bằng ý. Niệm Phật bị nhức đầu vì đã trụ danh hiệu Phật ở đầu. Theo cơ thể học, trụ ở đâu là máu tụ hội về đó, tụ hội nhiều quá sinh ra nhức đầu. Bởi vậy hành giả niệm Phật không được trụ bất cứ nơi nào trên cơ thể.

39. Hỏi: Ý trì có thể nhịp ngón tay hoặc lần chuỗi được không, thưa Thầy?

Đáp: Mới tập khi còn yếu thì được, tập quen rồi nên bỏ đi, vì nhịp tay hay lần chuỗi thì:

a. Thân động, tâm sẽ động theo.

b. Khi chú ý để nhịp tay hay lần chuỗi thì bị phân tâm.
Hai điều này gây khó nhất tâm.

40. Hỏi: Xin thầy nói rõ hơn sự phân biệt giữa ba cách trì danh: kim cang trì, mặc trì và ý trì, và sự lợi ích của ý trì.

Đáp:

- Kim cang trì và mặc trì đều là niệm thầm bằng miệng (không ra tiếng), còn gọi là khẩu trì. Nhưng kim cang trì còn nhép môi, còn mặc trì thì không nhép môi.

- Ý trì cũng là niệm thầm (không ra tiếng), nhưng niệm bằng ý (không phải niệm bằng miệng như kim cang trì hay mặc trì). Ý trì ban đầu còn yếu không nghe tiếng, sau lớn mạnh thì có tiếng. Lúc bấy giờ ta nghe tiếng không phải nghe bằng lỗ tai, (nhĩ căn, nhĩ thức), mà nghe bằng tánh nghe (thường gọi là tánh trong căn).

Trong Tuyết Hư Lão Nhân Tịnh Độ Tuyển Tập, Ngài Lý Bỉnh Nam nói: "Ý trì vẫn có tiếng". (Xin đọc kỹ phần IV – Cách trì danh trong sách Niệm Phật Đạt Bất Niệm Tự Niệm Bảo Đảm Vãng Sanh).

- Lợi ích của ý trì như sau:

a. Trong suốt thời gian ý trì, nhất định không có vọng niệm, vọng tưởng. Vì ý bận niệm Phật làm sao có niệm gì khác được (tâm vô nhị dụng, nghĩa là tâm một lúc không thể làm hai việc). Đó là pháp tu chỉ của Thiền tông. Lắng lòng nghe rành rẽ, rõ ràng danh hiệu Phật là tu quán rồi. Ý trì là Chỉ Quán song tu của Thiền. Do vậy, Kinh Đại Tập dạy: "Pháp môn Tịnh độ (niệm Phật) là vô thượng thâm diệu Thiền", là Thiền thâm sâu, vi diệu, cao nhất.

b. Ý căn và nhĩ căn xoay vào trong (hướng nội) để niệm Phật và nghe danh hiệu Phật, không để chúng rong ruổi (hướng ngoại) theo ngũ dục lục trần. Được vậy là ta đã nhiếp được hai căn chủ tể nhạy bén nhất của sáu căn. Sáu căn dung thông nhau, hễ viên thông được một là dung nhiếp cả sáu (nhất tu nhất thiết tu, thành tựu một là thành tựu tất cả).
Quán Thế Âm Bồ tát chỉ tu nhĩ căn được viên thông mà thành tựu quả vị Đẳng giác Bồ tát. Hành giả ý trì (niệm Phật bằng ý) là thực hành đúng phương cách trong Kinh Lăng Nghiêm dạy: "Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm nối tiếp, đắc Tam ma địa (tức đắc định, được Nhất tâm bất loạn) bậc nhất", "Bất giả phương tiện, tự đắc tâm khai", chẳng cần phương tiện gì khác tự được khai tâm (khai mở trí tuệ).
Màn hình làm giấy.
Phím chữ làm bút.
Màu sắc làm mực.
Thường chép kinh Phật.

Hư không dầu có hao mòn,
Tâm này Phật Pháp vẫn còn sáng soi
41. Hỏi: Ý trì có phải trụ tâm ở đâu không? Có nhiều Thầy dạy trụ ở nhiều nơi khác nhau trên thân, hoặc trên hình tượng Phật. Kính xin Thầy minh xác việc này.

Đáp:

(1) Không trụ mà trụ, trụ mà không trụ, như sau:

a. Kinh Kim Cang dạy: "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm", nghĩa là không trụ vào đâu cả mà sanh tâm (làm các việc). Kinh Bát Nhã dạy: 'Chiếu kiến ngũ uẩn giai không...', nghĩa là thấy năm uẩn đều không, đã là không thì lấy gì, lấy chỗ nào để mà trụ (không trụ)? Hành giả dùng ý niệm Phật một cách nghiêm túc (không đùa giỡn), bình thường (không vội vã, hấp tấp), thanh thản (không mong cầu), nhàn nhã (buông xả vạn duyên, không bận rộn dính mắc gì cả, tâm không, tâm vô sự). Đó là không trụ (vô trụ).

Còn "trụ" là sao? Dùng ý niệm Phật tức là cột ý vào danh hiệu Phật, có nghĩa là trụ trên danh hiệu Phật.

Hai ý trên là nghĩa câu thứ nhất "Không trụ mà trụ".

b. Trụ mà không chấp tướng, không trở ngại đường tu, trái lại đem lại nhiều lợi ích, là hoà nhập ý (tâm) với danh hiệu Phật làm một. Theo Kinh Niệm Phật Ba La Mật danh hiệu Phật là biểu tượng Pháp thân Phật, đúng như Kinh Quán Vô Lượng Thọ dạy: "Tâm làm Phật, tâm là Phật", Tông Cảnh Lục cũng nói: "Nhất niệm tương ưng, nhất niệm Phật". Trong Kinh A Di Đà Yếu Giải Liên tông Cửu Tổ Ngẫu Ích đại sư cũng nói: "Ngay khi niệm Phật mình đã là Phật rồi".

Đây là nghĩa câu thứ hai "Trụ mà không trụ".
(2) Trụ nhiều nơi khác nhau trên thân.

a. Theo cơ thể học, tập trung ý nghĩ (trụ) ở đâu, máu sẽ tụ hội về nơi đó. Nếu trụ ở đầu thì dễ bị nhức đầu (lên máu).

b. Ý đang niệm Phật, lại phải nghĩ trụ ở nhiều nơi nhất định nào đó, sẽ bị phân tâm, làm sao tiến tới nhất tâm được? Bởi vậy chư Tổ dạy rằng niệm Phật phải chuyên tâm nhất ý, là vậy.

c. Minh Tuệ tôi chưa thấy Kinh Phật hay chư Tổ nào dạy như vậy. Thành thật mà nói là tôi không rõ việc này.
(3) Nếu đặt danh hiệu Phật ở nhiều nơi trên hình tượng Phật, rồi tưởng tượng danh hiệu ấy nổi lên mà niệm, thiết nghĩ đây là pháp quán tưởng trì danh. Minh Tuệ hành trì pháp nhiếp tâm trì danh, không có kinh nghiệm về pháp quán tưởng, nên xin phép không có ý kiến.

42. Hỏi: Biết rằng ý trì hiệu quả cao, nhưng khó tập quá, con tập lâu thường bị nhức đầu. Vậy phải làm sao để được nhập tâm?

Đáp: Liên hữu niệm Phật mà tập trung tư tưởng nhiều quá (cố trụ danh hiệu Phật ở đầu, máu dồn lên đầu cũng gọi là hỏa xông, hay động não). Tập trung quá mức như vậy, không riêng gì ý trì, mà khẩu trì (niệm bằng miệng) vẫn bị nhức đầu. Bởi vậy chư Tổ, quý Thầy có dạy: “Niệm Phật không trụ vào đâu cả”, vô trụ, trụ ở đầu sẽ nhức đầu, trụ ở nhịp đập của tim thì bị nhức tim. Niệm một cách bình thường (không ép sức, không quá nhanh, vừa sức mình thôi), nghiêm túc (cung kính, không phải đùa giỡn), thanh thản (không mong cầu, vì mong cầu tức là vọng tưởng, tạp niệm), rành rẽ, rõ ràng (không lộn lạo, không trại giọng, nếu không thì khi nhập tâm nó sẽ bị lộn lạo như: Đà Phật A Di mà đựợc đề cập trong sách Niệm Phật Đạt Bất Niệm Tự Niệm Bảo Đảm Vãng Sanh).

Nếu với căn tánh của mình, liên hữu thực hành ý trì không nổi, thì áp dụng pháp mặc trì hay kim cang trì vẫn được nhập tâm, nhưng hơi lâu hơn mà thôi.

43. Hỏi: Thầy nói niệm Phật trụ ở nhịp đập của tim sẽ bị đau tim. Xin hỏi vì sao?

Đáp: Thực tế trường hợp này đã xảy ra rồi. Có liên hữu nọ thường ngày (huân tập) nương vào nhịp đập của tim (thay thế xâu chuỗi) mà niệm Phật. Hiệu quả rất tốt là không có vọng niệm, vì ý thức bận theo dõi (cột vào) nhịp đập của tim để niệm Phật, nghĩa là nhiếp cả ba: ý thức, nhịp đập của tim, danh hiệu Phật làm một. Tâm một lúc không thể làm hai việc, ở đây nhiếp ý vào nhịp đập của tim và danh hiệu Phật thì tạp niệm làm sao khởi dậy được, quá đúng lý (logic)! Tập lâu ngày (huân tập) thành thói quen, vị ấy nương vào nhịp đập của tim khởi câu Phật hiệu. Nhịp đập của tim hoạt động đều đặn, thường xuyên 24/24, do vậy công phu đắc lực hơn, rất tốt ở giai đoạn này.

Như trên đã nói, hành giả nương (trụ) vào nhịp đập của tim để niệm Phật. Bình thường tim đập 80 lần/phút thì niệm 80 câu Phật hiệu. Tiếng tim đập và tiếng Phật hiệu đồng hành nhịp nhàng như thế thành thói quen. Khi nhập tâm, tự nhiên tiếng Phật hiệu tăng từ 100 đến 120 lần/phút, nó kéo tim cũng phải đập theo. Vì thói quen nhịp tim đồng hành với niệm, từ 100 đến 120 lần/ phút, bắt tim làm việc quá sức, dẫn đến đau tim (triệu chứng ban đầu là nhức nơi tim). Đây là thực tế có người đã bị rồi. Từ đây suy ra, không nên nương vào hơi thở để niệm Phật (Tùy tức trì danh). Chưa nói khi nhập Bất niệm tự niệm sâu, tốc độ niệm Phật gia tăng càng nhiều hơn. Do vậy, nên nói niệm Phật không nên trụ bất cứ nơi nào trên cơ thể (vô trụ), như tôi đã trình bày ở phần trên.

44. Hỏi: Liên hữu ấy đã bị bệnh tim như vậy, phải chữa trị thế nào?

Đáp: Với bệnh này, nhập viện Tây y tìm không ra nguyên nhân, bác sĩ chỉ cho uống thuốc hạ nhịp đập của tim. Đây là cách trị ngọn, làm sao dứt bệnh được? Uống thuốc hạ nhịp đập của tim lâu ngày quen thuốc và gây nhiều phản ứng phụ, rất nguy hiểm. Còn Bất niệm tự niệm, tôi đã trực tiếp hỏi bác sĩ, việc đó là sao? Nguyên nhân như thế nào? Bác sĩ không trả lời được, vậy thì làm sao tìm biết được nguyên nhân bệnh tim nói trên?

Cách chữa trị như sau:

(1) Tách rời tiếng Phật hiệu khỏi nhịp đập của tim bằng cách không quan tâm để ý nghe tiếng nhịp đập của tim nữa (thả lỏng để nó tự đập). Miệng niệm Phật ra tiếng càng lớn càng tốt, tai lắng nghe, tâm ghi nhận danh hiệu Phật (miệng, tai và tâm đều niệm Phật). Niệm khoảng 30 phút hoặc 60 phút, liền hết nhức ngực. Đó là thành công bước đầu. Hành trì như vậy đôi ba ngày, sẽ dứt hẳn đau nhức, được lành bệnh.

(2) Nếu cách trên không thành công thì tập cách thứ hai:

Tách rời tiếng Phật hiệu khỏi nhịp đập của tim bằng cách không quan tâm, không để ý nghe tiếng nhịp đập của trái tim (thả lỏng để nó tự đập), miệng niệm Phật ra tiếng càng lớn càng tốt, trụ danh hiệu Phật ở một nơi nào đó trên thân như ở bụng hay đầu gối chẳng hạn (thay chỗ trụ của danh hiệu Phật, trước đây ở tim, bây giờ ở bụng). Tai lắng nghe, tâm ghi nhận danh hiệu Phật (miệng, tai và tâm đều niệm Phật). Niệm khoảng 30 phút hoặc 60 phút, liền hết nhức ngực. Đó là thành công bước đầu. Hành trì như vậy đôi ba ngày, sẽ dứt hẳn đau nhức, được lành bệnh.

Hai cách này chỉ khác nhau ở chỗ: Cách thứ nhất không trụ danh hiệu Phật vào đâu cả. Cách thứ hai trụ danh hiệu Phật ở bụng.

Sau khi lành bệnh hẳn, xả bỏ không trụ danh hiệu Phật ở bụng nữa (vô trụ). Có chăng, ý chỉ trụ vào danh hiệu Phật.

45. Hỏi: Nhập tâm lộn lạo Đà Phật A Di là sao?

Đáp: Kinh nghiệm cho thấy, nếu niệm không rành rẽ, rõ ràng thì khi nhập tâm sẽ không rành rẽ, rõ ràng. Khi niệm nhấn mạnh chữ nào, sẽ nhập tâm chữ đó trước, tiếp theo những chữ kế tiếp. Ví dụ, nhấn mạnh chữ "A" khi nhập tâm, sẽ ra "A Di Đà Phật". Nhấn mạnh chữ "Phật", khi nhập tâm nó sẽ ra "Phật A Di Đà". Nhấn mạnh chữ "Đà", khi nhập tâm nó sẽ ra "Đà Phật A Di".

Tôi đã bị rồi. Thuở đó không phải tôi niệm Phật, nhấn mạnh chữ "Đà", mà buổi tối ngủ tôi để máy niệm Phật suốt đêm. Máy Sony có một nút điều chỉnh, hát nhấn mạnh chữ đầu, giữa, hay cuối, tôi không để ý, nên nhấn lầm chữ giữa, mới ra nông nỗi như vậy. Một liên hữu khác cũng bị như tôi, nguyên nhân vì cô ấy niệm bốn chữ, mà chữ "Đà" kéo dài hơn hết, như vậy coi như là nhấn mạnh chữ "Đà".

Muốn điều chỉnh lại cũng được nhưng mất thời gian khá lâu. Xin gợi ý cách điều chỉnh sau đây:

Theo Duy thức học, khi chủng tử khởi hiện hành, ta quan tâm (thương, ghét, vui, buồn) đến nó, nó sẽ rơi (huân tập) vào tạng thức lớn mạnh hơn trước. Bằng không để ý đến nó, nó cũng rơi vào tạng thức, nhưng yếu dần dần, nhẹ hơn trước. Do vậy, khi nghe Tự tánh tự niệm "Đà Phật A Di" ta phớt lờ, dửng dưng (không quan tâm đến nó). Miệng lớn tiếng niệm A Di Đà Phật đè lấp "Đà Phật A Di" để điều chỉnh lại. Tùy người, tôi phải mất gần một năm, liên hữu nọ chỉ cần mấy tháng thôi, là điều chỉnh lại được hoàn toàn, nghĩa là mất hẳn không còn "Đà Phật A Di" nữa, mà toàn là "A Di Đà Phật" mà thôi.

46. Hỏi: Niệm Phật cách nào gọi là "Lão Thật niệm Phật"?

Đáp: "Lão thật niệm Phật" có nghĩa là thật thà (thành thật, chắc thiệt) niệm Phật. Thực hành bằng cách sau:

(1) Chuyên tâm nhất ý niệm Phật, ngoài danh hiệu Phật, không còn sự việc gì khác nữa.

(2) Miệng niệm Phật, tâm cũng phải niệm Phật.

(3) Miệng và tâm niệm Phật không xen tạp, không gián đoạn cho đến giờ phút cuối cùng cuộc đời, nghĩa là lấy danh hiệu Phật làm mạng sống của mình.

a. Tâm không hoài nghi, tuyệt đối tin tưởng vào lời giáo hóa của Phật Thích Ca và đại nguyện của Phật A Di Đà.

b. Tâm không mong cầu bất cứ gì khác như: chứng đắc, vãng sanh, thành Phật...

c. Tâm buông xả vạn duyên, nghĩa là tâm không nhớ nghĩ gì khác, kể cả ăn, uống, mặc, ngủ nghỉ, ngũ dục lục trần, danh văn lợi dưỡng, thị phi, được mất, hơn thua, thành bại..

d. Tâm không còn chấp ngã.
(4) Toàn thân tâm đều niệm Phật. Ban đầu dùng nhĩ căn niệm Phật, nghĩa là nghe bất cứ tiếng gì cũng là tiếng niệm Phật, như tiếng chim kêu, gió thổi, nuớc chảy, xe chạy, thậm chí tiếng mắng chửi mình cũng là tiếng niệm Phật (gọi là giả tá). Sau đó các căn khác cũng đều như vậy.

Kinh nghiệm cho biết dễ giả tá nhất là tiếng mõ. Bản thân tôi và nhiều Phật tử thực hành, có kết quả như ý.

(5) Hòa nhập năng sở làm một, nghĩa là ta, người niệm Phật (năng) và danh hiệu Phật được niệm (sở) là một.

Tóm lại: Buông xả vạn duyên, không mong cầu, suốt đời chuyên tâm nhất ý, toàn thân tâm niệm Phật không hoài nghi, không mong cầu, không xen tạp, không gián đoạn. Cuối cùng không còn chấp ngã, hòa nhập năng sở làm một.

Thực hiện được những điều nói trên, tùy theo mức độ cạn sâu, sẽ lần lượt chứng nhập: Nhập tâm, Bất niệm tự niệm, (Thành một khối), Nhất tâm bất loạn (Niệm Phật Tam muội).

Hành giả nên cố gắng, kiên trì thực tập từng bước, hầu sớm thành tựu Tịnh nghiệp, bảo đảm vãng sanh Cực Lạc, thành Phật độ chúng sanh.

47. Hỏi: Khi ngồi tịnh tọa niệm Phật, để nhiếp nhãn căn, con nhắm mắt, thời gian ngắn, bỗng con thấy những người và thú rất xa lạ với con, con mất chánh niệm. Con mở mắt ra thì không còn thấy gì nữa. Trước kia, con thường thấy vậy nhiều hơn, sau khi con được nhập tâm tình trạng này ít dần. Như vậy những hình người và thú này từ đâu mà có? Tình trạng này tốt hay xấu, và con phải làm sao, thưa Thầy?

Đáp:

(1) Chủng tử tiềm tàng trong tạng thức, chúng nương vào sáu căn để hiện hành. Nhắm mắt là đóng kín nhãn căn (không cho chủng tử hiện hành qua mắt) cộng thêm liên hữu niệm Phật là huân tập chủng tử danh hiệu Phật vào tạng thức, chủng tử vô lậu này chuyển hóa những chủng tử hữu lậu, để đối phó lại hai áp lực này, chủng tử hữu lậu phản ứng lại bằng cách khởi hiện hành, nên hiện tượng này gọi là "Sức phản ứng của chủng tử nghiệp".

Những hình người và thú mà liên hữu thấy, hiện hữu trong tâm. Cái thấy lúc bấy giờ không phải thấy bằng mắt (vì mắt đã nhắm lại rồi), mà thấy bằng tánh thấy (cũng ở trong tâm). Cảnh giới này hoàn toàn xảy ra trong tâm nên gọi là nội giới. Nội giới này xuất phát từ tạng thức (A lại da thức), nên gọi là "A lại da biến tướng".

(2) Hiện tượng này trước đây xảy ra nhiều, nay dần dần ít lại.

Theo Duy thức học, chủng tử khởi hiện hành mà mình không theo (không nuôi dưỡng), nó cũng rơi lại tạng thức nhưng yếu hơn, nhiều lần như vậy nó sẽ mất hẳn (tiệu diệt).

(3) Tốt hay xấu. Ở đây không nói tốt hay xấu, mà chỉ nói là nó lợi, hại thế nào?

a. Lợi: Chủng tử hữu lậu nó khởi hiện hành để rồi tiêu mất, nếu không, nó tiềm phục mãi trong tạng thức, đến giờ phút lâm chung, đủ duyên nó khởi hiện hành thì rất nguy hiểm. Đây là nói với hành giả chưa đạt Bất niệm tự niệm.

b. Không lợi, nó khởi hiện hành làm mình mất chánh niệm, vậy là bị xen tạp bị gián đoạn rồi.
(4) Cách đối trị.

Cổ đức dạy: "Không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm" Nghĩa là không sợ vọng niệm, vọng tưởng khởi dậy mà chỉ sợ quên không nhớ niệm Phật (giác chậm). Vậy thì hành giả nên:

a. Mặc kệ nó, hiện tượng (sức phản ứng của chủng tử nghiệp), cảnh giới (A lại da biến tướng) như nói trên, chúng là vọng tưởng, là giả, không thật, không cần chú ý, không cần quan tâm đến chúng, chúng tự sanh sẽ tự diệt.

b. Lập tức dõng mãnh phát khởi câu Phật hiệu "A Di Đà Phật". (Niệm càng to tiếng càng tốt). Ngay khi đó, hiện tượng, cảnh giới trên tự mất, vì tâm một lúc không thể làm hai việc, niệm Phật thì vọng niệm tự mất. Hành trì nhiều lần như vậy, ác chủng tử này tự diệt.
Phụ chú: Gần đây có hai nữ Phật tữ, không phải lúc nhắm mắt, mà lúc niệm Phật bình thường, bổng nhiên nghe tiếng, hoặc nhìn thấy hình ảnh dơ bẩn (bất tịnh) của nam nữ. Tệ hại hơn, đôi khi lại thấy rõ ràng diễn viên chính là mình với chồng. Tệ trạng này tương tự trường hợp trên. Vậy, phải hiểu và đối trị như nói trên.

48. Hỏi: Vậy, con nên nhiếp nhãn căn bằng cách nào, thưa Thầy?

Đáp: Từ nhiếp có hai nghĩa hẹp và rộng (cạn và sâu). Hành giả thường hành hai cách:

(1) Khi tịnh tọa niệm Phật, ngồi kiết già hay bán già, lưng thẳng, mở hí mắt (1/4), để hạn chế tầm nhìn của mắt.

(2) Khi tịnh tọa niệm Phật, đễ tượng (hình) Phật A Di Đà trước mặt, mắt nhìn tượng Phật để cột nhãn căn, nhãn thức vào tượng Phật, tránh không cho mắt phan duyên ngoại cảnh khác.

(Xin đọc câu đáp nhiếp sáu căn, dưới đây).

49. Hỏi: Nhiếp sáu căn là sao?

Đáp: Kinh Lăng Nghiêm nói: "Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm nối tiếp, đắc Tam ma địa bậc nhất". Sáu căn là gì? Là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Tại sao phải nhiếp? Sau đây là lý do:

* Ý nghĩa:

Người xưa dạy: "Sáu căn là sáu tên giặc (lục tặc) cũng là cửa sổ mở sáu phép thần thông (lục thông)" hoặc "Sáu căn không dính mắc sáu trần là giải thoát".

Mắt thấy sắc, đuổi theo, chấp chặt nên khổ đau. Tai nghe tiếng, đuổi theo, chấp chặt nên khổ đau. Mũi, lưỡi, thân, ý cũng vậy. Muốn hết khổ đau, tâm được an định thì sáu căn phải được thu nhiếp (không chạy theo sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp).

Tịnh niệm là niệm thanh tịnh. Thanh tịnh ở đây là không hoài nghi, không mong cầu, ngoài thánh hiệu A Di Đà, không xen tạp thánh hiệu nào khác, không tham, sân, si…

Tam ma địa nghĩa là chánh định, đối với Tịnh Độ tông tức là nhất tâm bất loạn.

* Thực hành: từ cạn đến sâu.

Cấp I: Nhiếp sáu căn nghĩa là sáu căn vẫn tiếp xúc và hay biết mọi sự mọi việc, nhưng chỉ dính mắc, chấp chặt duy nhứt vào một đối tượng mình mong muốn, ngoài ra không đuổi theo bất cứ sự việc nào khác. Cụ thể, mắt nhìn tượng Phật để nhiếp nhãn căn vào Phật. Tai nghe tiếng niệm Phật để nhiếp nhĩ căn vào thánh hiệu Phật. Mũi ngửi mùi hương cúng Phật để nhiếp tỷ căn vào cảnh giới Phật. Lưỡi niệm Phật để nhiếp thiệt căn vào thánh hiệu A Di Đà. Thân ngồi nghiêm trang để nhiếp thân căn vào cảnh giới Phật. Ý nhớ nghĩ ghi nhận tâm thanh của thánh hiệu Phật là nhiếp ý căn vào danh hiệu Phật. Tóm lại chỉ nhiếp sáu căn vào Phật, nghĩa là sáu căn chỉ dính mắc độc nhất vào Phật, không dính mắc vào sáu trần nào khác.

Người xưa dạy:

Thấy sắc không mê sắc
Nghe tiếng chẳng nhiễm tiếng
Sắc tiếng đều không ngại
Mới đến Pháp vương thành.

-o0o-

Như mù mắt không nhìn ngoại cảnh
Như điếc tai chẳng thính mảy may
Càng không dao động càng hay
Người ngồi tịnh tọa việc ngoài xem không.

-o0o-
Vua Trần Thánh Tông nói:

Lưỡi vướng vị ngon, tai vướng tiếng
Mắt theo hình sắc, mũi theo hương
Lênh đênh làm khách phong trần mãi
Ngày hết, quê xa vạn dặm đường.
"Chế tâm nhất xứ, vô sự bất biện" nghĩa là cột tâm một chỗ, không việc gì chẳng xong.

Cấp II: Ý trì là niệm Phật bằng ý (Xin đọc phần IV, Cách trì danh, sách Niệm Phật Đạt Bất Niệm Tự Niệm Bảo Đảm Vãng Sanh). Niệm bằng ý vẫn có tiếng. Bây giờ lắng lòng nghe tiếng Phật hiệu, gọi là "Phản văn, văn Phật hiệu". Nghe không phải là nghe bằng lỗ tai (nhĩ căn) mà nghe bằng tánh nghe (tánh trong căn).

Theo Duy thức học, ý thức chỉ đạo (là chủ) của năm thức trước, nghĩa là khi ý thức không can dự vào thì năm thức trước mất tác dụng (như nhìn mà không thấy, "thị bất kiến"; nghe mà không biết "thính bất văn"...). Do vậy, khi nhiếp được ý thức là đương nhiên nhiếp cả năm thức còn lại. Ý trì trên đây nhiếp ý thức lẫn nhĩ thức nên hiệu quả rất cao.

Cấp III: Tập như trên lâu ngày chày tháng thành thục, sẽ nhiếp (đóng) trọn vẹn nhĩ căn, nghĩa là ngoài danh hiệu Phật không còn nghe bất cứ âm thanh nào khác.

Lục căn dung thông (liên quan) lẫn nhau. Chỉ cần nhiếp thành tựu một căn, thì năm căn còn lại cũng thành tựu. Như Cổ đức dạy: "Nhất tu, nhất thiết tu", nghĩa là thành tựu một là thành tựu tất cả. Đạt đến trình độ này mới đúng nghĩa nhiếp trọn vẹn sáu căn. Khi nhiếp trọn vẹn sáu căn và niệm Phật không gián đoạn, là đạt Nhất tâm bất loạn. Ban đầu là Sự nhất tâm bất loạn, sau là Lý nhất tâm bất loạn, thì vãng sanh Thật báo trang nghiêm độ (Thượng phẩm).

50. Hỏi: Hành giả niệm Phật phải đạt tiêu chuẩn nào để được vãng sanh Cực Lạc?

Đáp: Muốn được vãng sanh, hành giả phải đạt những điều kiện như Kinh Phật ấn định như sau:

(1) Kinh A Di Đà dạy: "Xá Lợi Phất này! Nếu có thiện nam tử hay thiện nữ nhân mà được nghe nói Phật A Di Đà, rồi nhớ ngay danh hiệu của Ngài, niệm trong một ngày, hay là hai ngày, hay là ba ngày, hay là bốn ngày, hay là năm ngày, hay là sáu ngày, hay là bảy ngày, niệm kỳ cho thành người nhất tâm, không còn loạn tưởng, thế là người ấy khi nào lâm chung, Phật A Di Đà cùng chư Thánh chúng hiện ra trước mặt. Người ấy lúc chết, tâm không điên đảo, tức được sanh sang nước Cực Lạc của Phật A Di Đà".

(2) Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ dạy: "Lại này Xá Lợi Tử! Nếu có các thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân lòng tin trong sạch, được nghe danh hiệu vô lượng vô biên công đức chẳng thể nghĩ bàn của Phật Vô Lượng Thọ và thế giới Cực Lạc công đức trang nghiêm như vậy, nghe xong tư duy: hoặc một ngày một đêm, hoặc hai, hoặc ba, hoặc bốn, hoặc năm, hoặc sáu, hoặc bảy ngày, hệ niệm chẳng loạn thì các thiện nam tử, hoặc thiện nữ nhân đó, lúc lâm chung được Phật Vô Lượng Thọ và vô lượng Thanh văn đệ tử, Bồ tát chúng của Ngài vây quanh trước sau, đến đứng trước mặt, từ bi gia hựu (gia hộ, gia bị) khiến tâm chẳng loạn. Xả mạng xong, người này theo Phật chúng hội vào thế giới Cực Lạc, cõi Phật thanh tịnh của Phật Vô Lượng Thọ".

(3) Kinh Vô Lượng Thọ, Nguyện thứ mười tám: "Lúc tôi thành Phật, chúng sanh nghe danh hiệu tôi, chí tâm tin ưa, tất cả thiện căn, tâm tâm hồi hướng nguyện sanh cõi tôi, dẫu chỉ mười niệm, nếu chẳng được sanh, thì chẳng lấy chánh giác, chỉ trừ kẻ ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp".

(4) Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: "Bậc trí thức lại bảo phải chắp tay niệm Nam mô A Di Đà Phật, do đương nhơn thành tâm xưng danh hiệu Phật, nên tiêu trừ trọng tội tám mươi ức kiếp sanh tử". Ngay lúc ấy Đức Vô Lượng Thọ Như Lai cảm biết, liền sai Hóa Phật, Hóa Quan Âm và Hóa Thế Chí hiện đến trước hành giả khen rằng: "Lành thay thiện nhơn! Người đã xưng danh hiệu Phật, nên các tội tiêu diệt, ta đến đây để rước ngươi”.

Nói gọn, chỉ cần niệm Phật một câu cũng được Phật tiếp dẫn vãng sanh Cực Lạc.

(5) Kinh Pháp Cổ còn nói một cách đơn giản hơn: chỉ cần khởi lên ý muốn vãng sanh Cực Lạc là được Phật tiếp dẫn về Cực Lạc.

Tóm lại, điều kiện được vãng sanh hết sức dễ dàng, trước giờ phút lâm chung chỉ cần niệm một câu Nam mô A Di Đà Phật hay A Di Dà Phật. Hoặc vì lý do gì đó không niệm được chỉ cần khởi lên ý muốn vãng sanh Cực Lạc là được Phật tiếp dẫn về Cực Lạc.
51. Hỏi: Hành giả phải niệm Phật thế nào để được bảo đảm vãng sanh?

Đáp: Nhị Tổ Thiện Đạo đại sư, Bát Tổ Liên Trì đại sư, Hòa thượng Thích Trí Tịnh đồng dạy: "Người niệm Phật phải đạt tầng công phu thấp nhất là Niệm lực tương tục, tức là Bất niệm tự niệm mới bảo đảm vãng sanh". Muốn đạt Bất niệm tự niệm phải chuyên tu chánh hạnh, chánh định nghiệp theo sự dạy bảo của Nhị Tổ Thiện Đạo.

52. Hỏi: Chuyên tu chánh hạnh là sao?

Đáp: Quán Kinh Sớ quyển bốn, Nhị Tổ Thiện Đạo đại sư nói: "Từ công hạnh mà thiết lập tín tâm". Nhưng công hạnh có hai loại: một là chánh hạnh, hai là tạp hạnh. Chánh hạnh tức là chỉ y tựa vào các Kinh vãng sanh mà tu tập. Cụ thể chánh hạnh là như thế nào?

- Một là, nhất tâm chuyên tụng Quán Kinh, A Di Đà Kinh, Vô Lượng Thọ Kinh.

- Hai là, nhất tâm chuyên chú, suy gẫm, quán sát, ức niệm sự trang nghiêm của chánh báo và y báo của cõi Cực Lạc.

- Ba là, nếu như lễ lạy, thì chỉ chuyên tâm lễ lạy đức Phật A Di Đà.

- Bốn là, nếu xưng danh, thì chỉ nên xưng tán danh hiệu của đức Phật A Di Đà.

- Năm là, nếu như tán thán cúng dường, thì chỉ nên nhất tâm tán thán cúng dường đức Phật A Di Đà.

Đây gọi là chánh hạnh.

Lại nữa trong phần chánh hạnh, có hai loại: nhất tâm chuyên niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà, đi, đứng, nằm, ngồi bất luận thời gian dài ngắn, niệm niệm không quên, đây gọi là nghiệp chánh định, thuận theo bổn nguyện của Đức Phật A Di Đà. Còn các nghiệp: lạy Phật, tụng Kinh, tán thán Phật A Di Đà, quán sát cõi Cực Lạc đều gọi là nghiệp phụ.

Ngoại trừ hai hạnh chánh và phụ nầy ra, các hạnh khác đều gọi là tạp hạnh.

Câu trên ý muốn nói tạp hạnh nhiều vô lượng không thể nói hết được, thế nhưng ở đây nêu lên năm loại chánh hạnh làm chuẩn, ngoài ra đều là tạp hạnh.

Sơ Tổ Tịnh độ tông Nhật Bản là Pháp Nhiên thượng nhân dạy: "Phàm muốn xa lìa sanh tử, cần phải bỏ Thánh đạo môn mà vào Tịnh Độ môn". Trong Tịnh Độ môn nên bỏ tạp hạnh mà tu chánh hạnh. Trong chánh hạnh, cần phải gác qua trợ nghiệp mà chọn lấy chánh định nghiệp. Chánh định nghiệp tức là xưng danh hiệu Phật. Hễ xưng danh liền được vãng sanh, vì nhờ sức bản nguyện của Phật.

Trên đường trời, người, tu phước làm đầu. Trong biển sinh tử, niệm Phật bậc nhất.

53. Hỏi: Triệu chứng trước khi nhập tâm là thế nào?

Đáp: Triệu chứng có rất nhiều, tùy theo căn tánh, túc căn, quá trình tu tập hiện đời, có vị bị rất nặng, trung bình, nhẹ hoặc không có gì... Tôi không thể nói cho quí vị biết được vì hai lý do sau:

(1) Biết trước, quý vị sẽ có sẵn ấn tượng, vì quá mong muốn, hiện tượng ấy do tâm tưởng hình thành, nên chưa được mà cứ nghĩ là đã được, rất nguy hiểm!

(2) Hiện tượng xảy ra cho quí vị không giống như tôi. Nếu tôi kể ra hết có thể làm quí vị hoang mang, mà như thế là không tốt.

Nên nhớ: Dù hiện tượng nào đó xảy đến, mà nó không hành hạ quá đáng thể xác mình (như gây đau nhức nhiều) thì đó chỉ là hiện tượng tâm linh, hoặc nghiệp chướng khảo đảo. Hãy lạy Di Đà sám và an nhẫn tiếp tục hành trì, vài hôm hiện tượng đó tự dứt, liền được nhập tâm. Xin kể một số trường hợp cụ thể đã xảy ra như sau:

a. Hành giả nọ nghe trong đầu nổ: "Bốp!, A Di Đà Phật, Bốp! A Di Đà Phật, Bốp! A Di Đà Phật...". Tiếng "Bốp" rất lớn, lớn hơn tiếng A Di Dà Phật, tưởng chừng như sắp bể cái đầu, thế mà không bị nhức đầu gì cả (bình thường).

b. Hành giả khác lại nghe tiếng niệm Phật rất lớn (tưởng chừng như sắp bể cái đầu) pha trộn với đủ thứ tạp âm (đôi khi bất thiện) làm cho hành giả rối loạn tinh thần, mất ngủ, mệt mõi, hoang mang sợ bị tẩu hỏa nhập ma.

c. Hành giả khác lại nghe toàn là tạp âm như tiếng chuông chùa, tiếng trống, tiếng mỏ, tiếng thổi kèn, tiếng chim kêu, tiếng nước chảy, tiếng nước sôi, hoặc âm điệu niệm Phật, tiếng trẻ con khóc, v.v...

d. Bản thân tôi thì nghe tiếng ca cải lương, tiếng nói chuyện của người đã chết từ lâu, tiếng tụng trọn chú Đại bi và Nam Mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Những trường hợp trên chỉ là nghiệp chướng, sự phản ứng của tạp chủng tử nghiệp mà thôi. Nếu hành giả, thiếu hiểu biết, hoang mang lo sợ đủ thứ, rồi nghe những lời không đúng của kẻ bàng quang, không dám niệm Phật nữa (bỏ cuộc), kết quả sẽ không được gì cả, tự mình hủy hoại công phu nhiều năm hành trì niệm Phật (trắng tay), để rồi phải trôi lăn mãi trong sáu nẻo luân hồi, thật là oan uổng lắm vậy!

Tôi và quý hành giả nói trên thản nhiên, tiếp tục niệm Phật như thường ngày, thời gian sau hiện tượng kỳ lạ trên không còn nữa (tự dứt), liền được nhập tâm (êm ả nghe bằng tánh nghe) duy nhứt thánh hiệu Phật A Di Đà.

Có những trường hợp cá biệt khác, nếu cần, kính xin quý vị đặt câu hỏi trên website: [Phật Giáo Việt Nam Net Yêu Cầu Dăng Nhập Mới Có Thể Thấy Link. Đăng Ký Thành Viên Ở Đây], tôi hoan hỉ góp ý để quí vị vượt qua chướng nạn này, hầu được nhập tâm, thành tựu chí nguyện vãng sanh Cực Lạc, thành Phật, độ chúng sanh.

Có những vị ở Mỹ và Việt Nam, chẳng có triệu chứng gì, nhập tâm ba bốn năm rồi mà chẳng biết là gì, đường ai nấy đi, chẳng ai để ý đến ai, khi được thân nhân mách bảo mới tìm sách học cách nuôi lớn mức nhập tâm. Cũng có những vị không biết gì, từ từ nó mất luôn, thật đáng tiếc!

54. Hỏi: Làm sao biết được mình đã nhập tâm?

Đáp: Khi ta không dụng công niệm Phật mà vẫn nghe (phải nghe chứ không phải nghĩ, không phải tưởng, cũng không phải biết) tiếng niệm Phật. Ta thử bịt lỗ tai lại thì có hai trường hợp xảy ra:

a. Nếu tai không còn nghe gì nữa, thì cái nghe trước khi đó, thuộc trường hợp cái nghe bình thường. Đó là nghe dư âm từ không gian dội (rót) vào lỗ tai, là nghe bằng nhĩ căn, nhĩ thức, như vậy là không phải (chưa) nhập tâm.

b. Bằng như còn nghe (nghe tiếng niệm không phải từ dư âm bên ngoài), chứng tỏ rằng tiếng niệm Phật này không phải ở ngoài không gian, mà là ở trong nội tâm mình phát ra. Lúc này mình không nghe bằng lỗ tai, nhĩ căn, nhĩ thức nữa, mà nghe bằng tánh nghe, (nhà thiền gọi là tánh trong căn). Trường hợp này mới đúng là phản văn, văn tự tánh, nghĩa là quay cái nghe lại, nghe tự tánh mình niệm. Đây tạm gọi là nhập tâm.
55. Hỏi: Niệm Phật đến mức nhập tâm rồi, sao con nghe khi lớn khi nhỏ, như xa như gần, lúc ở đầu, lúc ở ngực, đủ thứ giọng khác nhau, nhiều khi chỉ nghe âm điệu Niệm Phật chứ không phải tiếng niệm Phật. Tại sao như thế?

Đáp: Phải nghe bằng tánh nghe mới là nhập tâm, còn như nghe bằng lỗ tai là chưa nhập tâm, phải để ý kỹ điều này. Lý do hành giả cảm thấy như thế là vì:

- Từ lâu rồi (những kiếp trước và kiếp này) ta huân tập đủ thứ, lúc bấy giờ chủng tử nào mạnh nhứt nó khởi hiện hành trước, nhân nào quả nấy.

- Tiếng khi lớn khi nhỏ lệ thuộc vào mức độ an định của tâm.

- Âm điệu niệm Phật là bước đầu của tiếng niệm Phật.

- Tâm không ở trong, không ở ngoài, không ở giữa, không ở trên, không ở dưới, mà ở khắp mọi nơi, mình nghĩ tưởng ở đâu, nó sẽ ở đó.

- Hãy tinh tấn miên mật huân trưởng mức nhập tâm theo sự chỉ dẫn trong sách "Niệm Phật Đạt Bất Niệm Tự Niệm Bảo Đảm Vãng Sanh" mọi sự, mọi việc sẽ từ từ điều hòa lại.

Trường hợp cụ thể, điển hình như sau:

(1) Bản thân tôi:

Ban đầu tôi nghe tiếng (bằng tánh nghe):

- Ca cải lương (từ thuở bé đến nay, tôi không thích, dĩ nhiên là chưa bao giờ tôi ca cải lương cả).

- Tụng trọn biến chú Đại Bi.

- Niệm: "Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật".

- Nói của người thân đã chết từ lâu, mà nhiều năm qua tôi chưa hề nhớ, nghĩ đến.

(2) Một liên hữu ở ngoài tiểu bang Texas:

Cô nghe (bằng tánh nghe) niệm: "Namo Amituofo", mà chính cô không biết Namo Amituofo là gì, dĩ nhiên là từ thuở bé đến nay cô chưa hề nghe và niệm như vậy.

Tại sao, xảy ra trường hợp khó hiểu thế? Vì lý do sau:

Những thứ nói trên, từ ca cải lương... đến Namo Amituofo, là những chủng tử ta đã huân tập (gieo) từ nhiều kiếp trước đến nay, chúng tiềm phục sâu trong tạng thức (vô thức), nay đủ duyên (nhờ công đức niệm Phật, tâm ta có phần nào thanh tịnh) chúng tự khởi hiện hành.

Tại sao, nay ta niệm A Di đà Phật mà không hiện hành "A Di đà Phật"? Vì chủng tử A Di Đà Phật còn yếu hơn những chủng tử kia. Nếu ta tiếp tục huân tập thêm chủng tử "A Di Đà Phật" đến mức độ nào đó, đủ mạnh, nó sẽ tự khởi hiện hành. Lúc bấy giờ những tạp chủng tử nói trên (ca cải lương...) sẽ không còn khởi hiện hành được nữa.

Đây là kinh nghiệm thực tế của bản thân tôi và liên hữu nọ. Tôi kể ra, để quý liên hữu từ đây suy ra, hiểu rõ, không phải thắc mắc, khó nghĩ với những trường hợp tương tự.

56. Hỏi: Trạng thái nhập tâm và Bất niệm tự niệm có khác nhau không? Nếu có, thì khác nhau như thế nào?

Đáp: Khác nhau, khác nhau ở chỗ cạn sâu. Nhập tâm là chỉ trạng thái ban đầu của Bất niệm tự niệm. Bao giờ dù mình không niệm mà vẫn nghe tiếng niệm Phật liên tục không gián đoạn, suốt thời gian từ sáng đến tối, đến khi ngủ quên, như vậy mới đúng nghĩa Bất niệm tự niệm. Còn như mỗi ngày chỉ nghe được năm, mười câu hay năm mười tiếng đồng hồ thì chưa đúng là Bất niệm tự niệm, chỉ gọi là Nhập tâm (bước đầu của Bất niệm tự niệm) mà thôi.

57. Hỏi: Người mới nhập tâm, sao nghe tiếng của máy, hoặc tiếng của quý thầy, chứ không phải tiếng của mình?

Đáp: Nhân nào quả nấy, khi hành trì huân tập giọng nào nhiều, mạnh hơn, giọng đó sẽ tự khởi lên trước. Hạt giống của đời này lẫn những đời trước, hạt giống nào mạnh sẽ khởi hiện hành trước. Trong thời gian huân trưởng, huân tập bằng giọng của mình, thời gian ngắn sẽ ra tiếng của mình. Chớ đặt nặng là tiếng, giọng của ai, vì nó sẽ thay đổi theo tiến trình công phu của hành giả.

58. Hỏi: Hành giả nhập tâm rồi, muốn nuôi lớn nó phải hành trì cách nào?

Đáp: Có nhiều vị nhập tâm năm, ba năm rồi mà không biết cách nuôi lớn, nên nó vẫn y như cũ, tệ hại hơn, có vị bị mất hẳn không còn nghe nữa. Mất hẳn ở đây có nghĩa là không còn nghe, chứ thật ra chủng tử niệm Phật vẫn còn tích chứa trong tạng thức, chẳng qua là bị những chủng tử hữu lậu che lấp, nên tạm gọi là bị chìm thì đúng hơn.

Vậy thì phải nuôi lớn (huân trưởng) bằng cách nào?

Tức huân trưởng mức nhập tâm (huân là huân tập, trưởng là trưởng dưỡng) như thế nào để trở thành Bất niệm tự niệm?

Tùy theo túc căn và công phu sâu cạn của mỗi người mà sự nghe ban đầu số câu nhiều, ít, thời gian dài, ngắn, tiếng lớn nhỏ, khác nhau. Nghe tiếng của mình hay của người khác, tùy thuộc vào sự huân tập tiếng của ai nhiều, thì nghe tiếng của người đó trước (của mình hay của máy niệm Phật).

Khi nghe niệm câu Phật hiệu (tự niệm) thì mình niệm theo cách nào cũng đuợc, niệm ra tiếng là tốt nhất, nếu có sức.

Bằng không, lắng lòng nghe tiếng tự niệm câu Phật hiệu thôi. Khi ngưng tự niệm câu Phật hiệu, thì mình niệm mồi ra tiếng là tốt nhất, thời gian dài, ngắn tùy mỗi người.

Thí dụ: Tự niệm mười câu Phật hiệu, mình niệm mồi ba mươi phút, ngưng coi có tự niệm lại không. Nếu chưa chịu niệm thì mình niệm mồi thêm mười phút nữa. Nếu có tự niệm thì mình ngưng. Đếm coi tự niệm mấy câu, khi câu Phật hiệu ngưng, mình lại niệm mồi nữa.

Ví như lần đầu niệm mồi bốn mươi phút, lần thứ hai mình phải niệm mồi đủ bốn mươi phút mới có tự niệm. Nhiều lần như vậy, nếu tự niệm tăng số câu, thì mình giảm số phút niệm mồi. Khi tự niệm tăng, mình giảm niệm mồi. Cho đến khi nào luôn luôn có tự niệm, mình khỏi niệm mồi, mà mình nghe tiếng niệm Phật liên tục, không gián đoạn, suốt thời gian còn thức, như vậy mới đúng nghĩa Bất niệm tự niệm.

Trường hợp niệm lực còn yếu, nếu ta đang bận làm việc gì chẳng hạn như đọc sách được vài hàng, vài trang, thì không còn nghe tiếng niệm Phật nữa. Hãy huân tập niệm, hoặc bằng miệng, hoặc bằng ý thật nhiều cho đến khi nào nghe suốt cả ngày, thậm chí đang đọc sách cả ngày, vẫn nghe câu Phật hiệu trong tâm (tự tánh) phát ra liên tục không gián đoạn.

Phụ chú: trong giai đoạn huân trưởng vẫn phải quan tâm tuân hành bốn yếu quyết huân tập đề cập ở câu đáp 6A.

59. Hỏi: Có người nói nhập tâm được rồi mà nói ra sẽ bị mất. Điều này lý giải ra sao?

Đáp: Có hai trường hợp:

(1) Nói ra để khoe khoang, khoác lác thì bị mất, như Tổ thứ hai Thiện Đạo đại sư dạy: "Người đã được, nói là được để khoe khoang, khoác lác là nuôi lớn cái ta, từ đó sanh ra cống cao ngã mạn thì bao nhiêu công đức tu hành tự thiêu hủy hết".

(2) Nói không đúng sự thật, Tổ thứ mười ba, Ấn Quang đại sư dạy: "Chưa được mà nói là được, hoặc được mười mà nói mười một là đại vọng ngữ, sẽ sa A tỳ địa ngục".

Trường hợp nói ra để chia sẻ kinh nghiệm, khuyến khích bạn đạo cùng tu, chẳng những không mất mà còn có thêm công đức giúp mình dễ tiến tu hơn.

60. Hỏi: Ông xã con niệm Phật lai rai mà đã nhập tâm mấy tuần trước như Thầy đã biết, trưa nay đang tịnh tọa niệm Phật, lại nhiều lần thấy Quán Thế Âm Bồ tát. Vâng lời thầy, Ổng niệm Phật A Di Đà, càng niệm Phật, hình Quán Thế Ấm Bồ tát càng sáng tỏ hơn, như vậy là sao, thưa Thầy?

Đáp: Tốt lắm! Chú ấy được Quán Thế Âm Bồ tát tích cực hộ trì đây là điều rất quý, nhưng đừng đắm trước, mong muốn thấy thường xuyên sẽ gây chướng ngại sự tiến tu.

Hằng ngày nỗ lực tinh tấn huân trưởng mức nhập tâm theo chỉ dẫn trong sách "Niệm Phật Đạt Bất Niệm Tự Niệm Bảo Đảm Vãng Sanh". Mỗi tối, trước khi đi ngủ, nên niệm mười câu: Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
61. Hỏi: Con được nghe tự niệm (nhập tâm) hơn một tuần, nay bị mất (không còn nghe nữa). Vậy là tại sao, và làm sao lấy lại (nghe lại)?

Đáp:

(1) Huân tập chủng tử niệm Phật vào tạng thức khi đủ rồi, chủng tử khởi hiện hành. Không dụng công, không tác ý (không ra sức) niệm Phật mà vẫn nghe tiếng niệm. Đó là ta nghe được bằng tánh nghe. Mức độ này gọi là nhập tâm.

Thí dụ: Trong lu chứa lẫn lộn hai loại đậu trắng, đậu đen. Nay bỏ nhiều đậu trắng, dĩ nhiên đậu trắng nổi lên trên mặt (nhập tâm).

(2) Nay hành giả bị mất trạng thái nhập tâm, không còn nghe tự tâm niệm nữa, vì các lý do sau:

a. Không tiếp tục nuôi lớn (huân trưởng), không chuyên tu mà tạp tu (hãy đọc Phần V - chuyên tu chánh hạnh, sách Niệm Phật Đạt Bất Niệm Tự Niệm Bảo Đảm Vãng Sanh, và câu đáp 6A).

b. Không buông bỏ được mà bận rộn, dính mắc những thứ như:

- Tình cảm gia đình bị xáo trộn, sứt mẻ, vợ chồng, (không chung thủy) cha mẹ, anh chị em (giận hờn,...).

- Lo lắng sinh kế gia đình (quá bận rộn việc làm hằng ngày).

- Dính mắc lục trần: Sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp (ghiền nghe máy thu thanh, xem truyền hình, đắm mê phim Tàu, Tây, say sưa ca nhạc, du ngoạn Âu Á...).

Thí dụ: Không tiếp tục bỏ vào lu đậu trắng mà bỏ đậu đỏ (tạp tu) và đậu đen (thế sự) quá nhiều. Dĩ nhiên đậu trắng phải bị chìm (không còn nghe tiếng tự niệm nữa).
(3) Muốn hồi phục sự nghe tự tánh tự niệm, chỉ có cách duy nhất là huân trưởng mức nhập tâm (Xin đọc câu đáp 6A và 58A).

Thí dụ: Ngưng không bỏ đậu đỏ (tạp tu), đậu đen (hạt giống hữu lậu khác) vào lu nữa, mà chuyên bỏ thật nhiều đậu trắng (huân tập danh hiệu Phật thật nhiều). Tức nhiên đậu trắng tràn đầy lại trên mặt lu (chủng tử khởi hiện hành lại).

62. Hỏi: Phải nuôi lớn mức nhập tâm bao lâu mới đạt Bất niệm tự niệm?

Đáp: Thời gian nuôi lớn tùy thuộc bốn yếu tố sau:

- Túc căn, trình độ, cách hành trì, mức độ tinh tấn.

- Có nhiều vị túc căn sâu dầy mới nhập tâm, tự niệm liên tục chín mươi phút (trong lúc đó có vị chỉ tự niệm năm mười câu).

- Hành trì nuôi lớn đúng cách chỉ dẩn (câu đáp 58A).

- Tinh tấn tối đa, về chùa nhập thất từ bảy ngày đến một tháng, từ nhập tâm đạt Bất niệm tự niệm.

- Trường hợp hoàn cảnh không cho phép, về chùa không được, thì nên tự nhập thất tại gia một tháng, cũng sẽ có thể thành tựu như ý.

- Còn như trình độ nhập tâm thấp (chỉ nghe được khoảng năm mười câu), lại phải đi làm ngày tám tiếng đồng hồ, về nhà bận mọi việc, những ngày cuối tuần (Thứ bảy, Chủ Nhật) lại bận đi mua sắm, hoặc giải trí hoặc v.v... thì phải mất một hai năm. Nếu không khéo bị mất luôn. Thực tế trong hơn chín mươi vị nhập tâm, đã có hơn mười vị bị mất rồi. Trong số này cũng đã có mấy vị về chùa nhập thất từ một, hai tuần trở lên, mới hồi phục, nhập tâm lại được.

- Nói là "bị mất" nhưng thật sự "bị chìm" thì đúng hơn.

Thí dụ: đậu trắng vừa mới nổi lên mặt lu, không tiếp tục bỏ đậu trắng mà liên tục bỏ đậu đen (chủng tử hữu lậu qua những việc thế sự), hoặc bỏ đậu đỏ (tạp tu, không chịu khó hành trì vô gián tu, không chuyên tu chánh hạnh, chánh định nghiệp) nên đậu trắng bị chìm là chuyện dĩ nhiên thôi, mà chìm càng sâu, càng khó nổi lên lại được (hồi phục).

* Vì muốn thoát cảnh luân hồi nhiều hiểm nguy.

* Vì muốn cứu độ tất cả chúng sanh (dĩ nhiên trong đó có ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cháu nhiều đời nhiều kiếp của mình).

* Để khỏi phụ tấm lòng đại bi, ngày đêm mong chờ của đức Từ phụ A Di Đà, và sự tận tình giáo hóa của đức Bổn sư Thích Ca, chư Tổ, quý Thầy.
Tôi thiết tha kêu gọi quý liên hữu:

(1) Chưa được mức độ nhập tâm, hãy gấp rút nỗ lực vô gián chuyên tu chánh hạnh chánh định nghiệp để sớm nhập tâm.

(2) Đã nhập tâm rồi, hãy nổ lực hành trì như pháp, nuôi lớn mức nhập tâm, đạt Bất niệm tự niệm bảo đảm vãng sanh.

Thành kính cám ơn chư liệt vị.

Nam mô Tinh Tấn Hỉ Bồ tát Ma ha tát
Nam mô A Di Đà Phật

63. Hỏi: Hành giả phải tu đến trình độ nào để chắc chắn được vãng sanh?

Đáp: Nhị Tổ Thiện Đạo đại sư, Bát Tổ Liên Trì đại sư và Hòa thượng Thích Trí Tịnh đồng dạy: "Người niệm Phật phải đạt tầng công phu thấp nhất là Bất niệm tự niệm (niệm lực được tương tục) mới bảo đảm vãng sanh". Muốn đạt Bất niệm tự niệm phải chuyên tu Chánh hạnh, Chánh định nghiệp theo sự dạy bảo của Nhị Tổ Thiện Đạo đã nói ở câu đáp 52A.

64. Hỏi: Hành giả đạt Bất niệm tự niệm, muốn huân trưởng nó, phải hành trì cách nào?

Đáp: Muốn huân trưởng mức độ Bất niệm tự niệm, trong định khóa hành giả phải: tịnh tọa, lắng lòng, chú ý, lắng nghe tiếng niệm Phật của tự tánh.

Tịnh tọa: là ngồi yên lặng (xin đọc tỉnh tọa niệm Phật nói ở phần IV: Thời khóa công phu, sách Niệm Phật Đạt Bất Niệm Tự Niệm Bảo Đảm Vãng Sanh).

Lắng lòng: lắng lòng cũng gọi là nhiếp tâm, định tâm, nghĩa là lúc ấy buông xả vạn duyên, không nghĩ thiện, không nghĩ ác, không tính toán lợi hại, được mất, hơn thua, vinh nhục, không dính mắc sáu trần, không nhớ nghĩ thế sự, quá khứ, hiện tại, vị lai. Lúc này tâm không hướng ngoại mà quay hẳn vào trong, rỗng rang, vô sự. Y như Lục Tổ Huệ Năng bảo Thượng tọa Huệ Minh: "Thượng tọa hãy lắng lòng nghe ta hỏi, trong lúc không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của Thượng tọa Huệ Minh?". Ngắn gọn, giản dị như thế mà Thượng tọa Huệ Minh tự khai ngộ, nhận ra bản lai diện mục (Phật tánh) của chính mình. Nhờ đâu? Nhờ lắng lòng.

Chú ý (tác ý) lắng lòng rồi chăm chỉ, chú ý, vì tâm vô nhị dụng, tâm không thể làm một lúc hai việc, chú ý nghe là cột tâm vào câu Phật hiệu, thì tâm không có niệm gì khác được (không vọng niệm).

Lắng nghe: nghĩa là dùng cái tâm rỗng rang vô sự lắng nghe (bằng tánh nghe) rành rẽ, rõ ràng, từng tiếng, từng câu niệm Phật của tự tánh. Đây mới thật sự là nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm nối tiếp mà Kinh Lăng Nghiêm, Phẩm Đại Thế Chí Bồ tát Niệm Phật Viên Thông Chương đã dạy.

Làm được bốn điều này trong thời gian ngắn, hành giả sẽ đạt niệm Phật Thành một khối. Tiếp tục hành trì như thế, sẽ tiến đến Nhất tâm bất loạn (từ sự đến lý, cũng gọi là niệm Phật tam muội) không cần phương tiện gì khác, như Kinh Lăng nghiêm đã dạy.

Trong lúc lắng nghe, câu Phật hiệu dù có nhanh, không rõ do nuốt chữ hay nhỏ tiếng, cũng mặc kệ, cứ một lòng lắng nghe từng tiếng, từng câu một. Thậm chí tiếng niệm Phật bị mất hẳn, cũng mặc kệ (không niệm mồi như huân trưởng mức nhập tâm nói trên) cứ một lòng lắng nghe, tự nhiên tiếng niệm Phật sẽ nổi lên lại, theo đúng chu kỳ của nó.

Lặp đi lặp lại nhiều lần như vậy. Kiên tâm bền chí hành trì như thế lâu ngày sẽ không còn bị gián đoạn, mà được nối tiếp liên tục.

Phụ chú: Phương cách nói trên áp dụng trong định khóa (định tâm niệm Phật). Ngoài định khóa hành giả cũng nên niệm Phật ra tiếng hoặc nghe máy hầu phụ trợ hiệu năng huân trưởng.

Tiến sâu hơn, lấy động tu tịnh, giữa đại chúng trong đạo tràng cả trăm người cùng quý Thầy tụng Kinh, khi đang tràn ngập lời Kinh cùng tiếng chuông mỏ, mà ta nhiếp được nhĩ căn không cho nó phan duyên theo ngoại thinh, lắng lòng nghe được tiếng niệm Phật của tự tâm một cách liên tục không gián đoạn. Được vậy mới gọi là không bị cảnh chuyển, làm chủ được mình, bảo đảm vãng sanh.

Phàm làm việc gì, khi mình nhận thức được lợi ích của việc làm đó, mình mới hăng say, thích thú mà làm. Niệm Phật hay cách huân trưởng cũng không ngoài nguyên tắc này. Vậy hành giả nên tự tạo cho mình động cơ, thúc đẩy ta dũng mãnh tinh tấn hành trì miên mật, bằng cách tu tập cho ta có những khái niệm sau đây:

- Khái niệm rằng: bốn chữ A Di Đà Phật không phải là danh tự rỗng, mà là biểu tượng Pháp thân Phật A Di Đà (Kinh Niệm Phật Ba la mật). Niệm A Di Đà Phật là niệm Pháp thân của Ngài, nhớ nghĩ, cầu cứu Ngài tiếp dẫn vãng sanh Cực Lạc quốc. Chắc chắn ta được vãng sanh, nếu không thì Ngài trái với bổn nguyện (trái lời thề). Ngài đâu còn là Phật.

Vả lại Kinh dạy: "Mặt trời, mặt trăng có thể rơi rụng, núi Tu Di có thể tiêu tan, nhưng lời nói của Phật không bao giờ hư dối", huống hồ đây là lời thề. Mặt khác trong Kinh A Di Đà nói: "Phật A Di Đà thành Phật đến nay đã mười kiếp rồi". Chữ Kiếp nếu đại kiếp, một đại kiếp bằng một tỷ ba trăm bốn mươi bốn triệu năm. Nếu tiểu kiếp, một tiểu kiếp bằng mười sáu triệu bảy trăm chín mươi tám ngàn năm. Ngài thành Phật đã quá lâu rồi, điều này chứng minh rằng Ngài không nguyện suông, Ngài đã tiếp dẫn tất cả chúng sanh đã niệm danh hiệu Ngài, Ngài không bỏ sót một ai cả.

- Khái niệm rằng: bốn chữ A Di Đà Phật là vạn đức hồng danh. Thánh hiệu này được tạo thành bởi vô lượng công đức mà Tỳ kheo Pháp Tạng (tiền thân của đức Phật A Di Đà) tu tập trong vô lượng kiếp, nên nói Thánh hiệu này tích tụ bao hàm vô lượng công đức. Liên tông Cửu Tổ Ngẫu Ích đại sư nói: "Niệm A Di Đà Phật để dời công đức đến với mình, thì công đức nào cũng phải đến hết".

- Khái niệm rằng: "Niệm Phật thành Phật". Nhân nào quả nấy. Khi hành giả niệm Phật là một mặt cầu cứu Phật A Di Đà tiếp dẫn vãng sanh, mặt khác, đánh thức ông Phật của tự tánh mình. Cổ đức nói: "Nhất niệm tương ưng, nhất niệm Phật. Niệm niệm tương ưng, niệm niệm Phật. Ngẫu Ích đại sư cũng nói: "Mỗi tiếng niệm Phật, tiếng nào mình cũng đã là Phật rồi".

- Khái niệm rằng: tiếng niệm Phật siêu việt hơn hết mọi âm thanh, vì bản thể của nó là toàn bộ công đức, trí tuệ, hạnh nguyện của Phật. Tiếng niệm Phật có công năng thỏa mãn mọi nhu cầu của mình (tội diệt, phước sanh), có công năng tuyệt vời là chuyển hóa hết những chủng tử hữu lậu như tham, sân, si... bạch tịnh hóa tạng thức, tức là chuyển đổi thân tâm dần dần thanh tịnh mà mình không hề hay biết (Kinh Niệm Phật Ba la mật). Cuối cùng chuyển tám thức thành bốn trí.

Hành giả kiên tâm, bền chí hành trì sẽ cảm nhận sự vi diệu không thể nghĩ bàn.

Lưu ý: hành giả đạt Bất niệm tự niệm rồi, phải duy trì tình trạng này suốt đời để được bảo đảm vãng sanh.

65. Hỏi: Niệm Phật đạt Bất niệm tự niệm và Thành một khối giống hay khác nhau, giống và khác chỗ nào?

Đáp: Trong tiến trình tu Tịnh nghiệp, đạt đến Nhất tâm bất loạn có hai thuyết nói về điều này, có chút khác biệt như sau:

(1) Thuyết của Hòa thượng Trí Tịnh:

- Bất niệm tự niệm.

- Sự nhất tâm bất loạn.

- Lý nhất tâm bất loạn.

(2) Thuyết của Hòa thượng Tịnh Không:

- Thành một khối.

- Sự nhất tâm bất loạn.

- Lý nhất tâm bất loạn.

Hai thuyết này giống nhau ở chỗ cả hai đều nói có ba giai đoạn. Trong đó giai đoạn hai (2) và ba (3) giống nhau, chỉ giai đoạn đầu, tên gọi có khác nhau.

Bất niệm tự niệm nghĩa là không khởi tâm niệm Phật mà Tự tánh tự phát khởi tiếng niệm. Đây là diễn tả trạng thái hành trì.

Thành một khối nghĩa là trước đây những câu Phật hiệu rời rạc, riêng rẻ, nay chúng kết lại với nhau thành một khối, (một mãng, một phiến). Đây là diễn tả kết quả.

Tôi nghĩ vấn đề này, việc này là sự việc trừu tượng, không hình tướng, tạm đặt cho "Nó" một cái tên (một qui ước), để tiện diễn tả cho mọi người cùng hiểu, biết về "Nó" mà thôi.

Tùy theo cách diễn tả của mỗi người, nên có tên khác nhau vậy thôi. Đó là hai mặt của một vấn đề, hai khía cạnh của một sự việc. Vậy thì, tuy hai tên gọi khác nhau nhưng chung qui chỉ là một, cũng giống như những từ "Bản lai diện mục", "Phật tánh", "Tự tánh", "Như lai tạng"... tên tuy khác nhưng chúng là một (dị danh đồng thể).

66. Hỏi: Còn tên gọi "nhập tâm" thì sao?

Đáp: Đầu năm 2009 tôi ra thất, chia sẻ kinh nghiệm niệm Phật cho Phật tử chùa Tịnh Luật. Hai tuần sau, có hai Phật tử được nhập tâm. Sáu tháng sau, có khoảng trên hai chục vị nhập tâm. Đầu năm 2010, có trên ba mươi vị nhập tâm, đến nay (tháng 7/2011) có trên chín mươi vị nhập tâm (kể cả tu sĩ và cư sĩ ở các tiểu bang khác). Lúc bấy giờ có mấy Phật tử đã nhập tâm trước đó, ỷ lại, giải đãi, buông trôi, không tiếp tục hành trì nên không còn nghe tiếng tự niệm nữa, bị mất (nói bị mất, thật ra nói bị chìm mới đúng, vì chủng tử niệm Phật vẫn còn đó, đâu có mất, chẳng qua là bị những chủng tử hữu lậu khác đè lên mà thôi).

Từ đó tôi đặt tên "nhập tâm" để chỉ những vị mới được nghe tiếng tự niệm Phật của tự tánh, để tránh ỷ lại, giải đãi, buông trôi, mà phải tiếp tục huân trưởng thuần thục (phải nghe suốt thời gian còn thức) mới gọi là đạt Bất niệm tự niệm, bảo đảm vãng sanh. Nhập tâm chỉ là bước đầu của Bất niệm tự niệm.

67. Hỏi: Người đạt Bất niệm tự niệm sâu, có còn vọng niệm không? Bao giờ mời trừ hết vọng niệm?

Đáp: Người đạt Bất niệm tự niệm sâu, vọng niệm ít khởi. Thỉnh thoảng vẫn có khởi, nhưng vừa khởi lên liền tự dứt. Đây là điều vi diệu, độc đáo nhất của pháp môn này.

Liên tông Thập nhị Tổ Triệt Ngộ thiền sư nói: "Chỉ có đức Phật mới vô niệm, còn từ Đẳng giác Bồ tát trở xuống đều hữu niệm". Như vậy từ "vô niệm" mà ta thường dùng đó là không tà niệm, chứ không phải là không niệm (xin chớ hiểu lầm).

Liên tông Cửu Tổ Ngẫu Ích đại sư nói: "Nhập vô tưởng định vẫn còn tám vạn bốn ngàn (84.000) loạn tưởng khô khan".

Ngài Lý Bỉnh Nam nói: "Trong khoảng khảy ngón tay có sáu mươi sát na. Mỗi sát na có một trăm mười ý niệm". Như vậy, trong khoảng khảy ngón tay có sáu ngàn sáu trăm (6.600) ý niệm. Những ý niệm ta thường biết đó là những ý niệm thô, còn những ý niệm vi tế, ta khó bề hay biết được.

68. Hỏi: Người tu Tịnh nghiệp phải đến trình độ nào mới được vãng sanh theo ý muốn?

Đáp: Hành giả phải đạt Lý niệm Phật Tam muội (Lý nhất tâm bất loạn), mới được vãng sanh về Tịnh Độ trong mười phương theo ý muốn. (Xin đọc câu đáp 35B).

Pháp sư Tịnh Không nói: "Niệm Phật Thành một khối cũng có thể tự tại vãng sanh". Nghĩa là sống chết theo ý muốn.

69. Hỏi: Con quyết niệm Phật đạt Bất niệm tự niệm, bảo đảm vãng sanh, để thành Phật độ chúng sanh, nhưng vì phước mỏng, nghiệp dày, chướng sâu, huệ cạn, bệnh hoạn liên tục, có thể con chết sớm chưa đạt Bất niệm tự niệm, vậy con có được vãng sanh không?

Đáp:

a. Đức Phật dạy: "Bình thời cây to hay bức tường lớn nghiêng hẳn về hướng Tây, khi giông bão tới, cây sẽ ngã, tường sẽ đổ về huớng Tây chứ không thể ngã đổ về hướng nào khác được, vì nó đã nghiêng hẳn về hướng đó rồi".

b. Cũng vậy, hành giả Tịnh nghiệp đã có Tín và Nguyện là đã có hướng về rồi, bây giờ cần hành sâu (nghiêng hẳn, có được điểm tối thiểu) để có đủ điều kiện giờ chót vãng sanh.

c. Dù chưa đạt Bất niệm tự niệm, nhưng nhờ công đức niệm Phật nên:

- Được tiêu trừ nhiều nghiệp chướng, sanh nhiều phước đức (Kinh nói: "Niệm một câu A Di Đà Phật diệt được tám mươi ức kiếp trọng tội sanh tử, hưởng được tám mươi ức kiếp công đức vi diệu"). Hiện nay bệnh hoạn đủ thứ đó là trả nợ (trả nợ, sẽ hết nợ) đó là hiện tượng chuyển nghiệp nặng thành nhẹ, nghiệp nhẹ thành không, vậy thì, đáng mừng không gì phải lo sợ.

- Huân tập nhiều chủng tử niệm Phật trong tạng thức, dù hiện đời chưa đủ điều kiện (chưa chín mùi) để khởi hiện hành (nhập Tâm) nhưng cũng tương đối nhiều, lớn mạnh (chín nhưng chưa mùi mà thôi) để trước giờ phút lâm chung, thánh chúng và Phật đến phóng hào quang gia hựu (tăng thượng duyên, nâng cấp, giúp cho thêm điểm để đủ điểm đậu) giúp hành giả có chánh niệm, niệm Phật để Phật tiếp dẫn vãng sanh. Phải hiểu gia hựu (gia hộ, gia bị) là tăng thượng duyên (cho thêm điểm) Thí dụ: mười điểm được đậu, Phật đến cho thêm hai điểm, bản thân mình phải có tám điểm mới đậu. Bằng như mình chỉ có từ một đến bảy điểm thì đành chịu rớt.
Bởi vậy, trước giờ phút lâm chung, người niệm Phật nào cũng đều được Phật đến gia hựu (cho thêm điểm, nâng cấp), nhưng đâu phải người nào cũng được Phật tiếp dẫn đâu, đương sự phải có đủ điểm tối thiểu (tám điểm nói trên, nhân sắp chín mùi, gọi là đủ duyên, Phật mới độ được là vậy). Không thể hoàn toàn dựa vào tha lực mà phải có tự lực làm nhân, làm duyên.

Tin hiểu như thế mới là chánh tín, bằng không sẽ rơi vào mê tín. Quý liên hữu nên nhớ kỹ điều này.

70. Hỏi: Bạch Thầy, trước đây con khỏe mạnh, làm chủ điều hành một cửa tiệm, công việc suông sẻ, gia đình hạnh phúc, các con học hành thành đạt. Con đi chùa nghe quí Thầy giảng nào là: Ta bà vô thường, khổ... bố thí tài thì kiếp sau được giàu có. Bố thí vô úy sẽ không bệnh tật, được sống lâu... Cực Lạc vui sướng, không già, không bệnh, không chết... Một đời thành Phật... Con ngộ được con đường phải đi, nên phát tâm ăn chay trường, hành bố thí cúng dường, tinh tấn dõng mãnh niệm Phật cầu vãng sanh Cực Lạc.

Ngày nọ, con thấy mấy bạn con bị đủ thứ khổ nạn. Con nghĩ nếu kiếp sau con cũng vậy thì khổ lắm, nên con nguyện kiếp này bao nhiêu tội nghiệp con lãnh hết, để kiếp sau con về Cực Lạc tu hành thành Phật độ chúng sanh. Con thường nghĩ rằng, con trường chay, ngày đêm niệm Phật không ngừng nghỉ thì Phật A Di Đà cùng chư Phật mười phương hộ niệm con, cuộc đời con sẽ thăng hoa hơn.

Nào ngờ trái ngược hẳn, khoảng sáu tháng qua, bao nhiêu điều xui xẻo đổ ập vào gia đình con. Riêng bản thân con bị mổ mấy lần rồi, mổ cổ mới lành, lại mổ bao tử. Nay con đau yếu đủ thứ, niệm Phật con phải cố gắng lắm mới niệm được, còn lạy Phật thì con đành chịu thua không lạy nổi. Con sợ con sẽ chết trước khi con được Nhập tâm, Bất niệm tự niệm, mất phần vãng sanh theo ý nguyện của con. Bao lần qua, con định thưa với Thầy, nhưng con ngại quá, hôm nay con thật chịu không nổi nữa! Kính xin Thầy từ bi cứu vớt đệ tử. Con xin bái Thầy ba lạy để tạ ơn. Nam mô A Di Đà Phật.

Đáp: Tôi rất cảm động và thông cảm hoàn cảnh của cô, sau đây tuần tự tôi xin góp ý với cô như sau:

(1) Trước đây gia đình cô hoàn toàn hạnh phúc, đó là quả của nhân thiện đến lúc chín mùi. Trong lúc đó, những nhân không thiện vẫn còn tiềm phục trong Tạng thức, chờ đủ duyên sẽ phát khởi ra.

(2) Những lời quý Thầy dạy là hoàn toàn đúng.

(3) Cô tỉnh ngộ, dõng mãnh phát tâm tu hành: trường chay, hành bố thí, cúng dường, quyết tâm tinh tấn niệm Phật cầu vãng sanh Cực Lạc là hoàn toàn đúng như pháp.

(4) Cô nghĩ mình hành trì như vậy sẽ được Đức Từ phụ Di-đà và chư Phật trong mười phương hộ niệm cô, cuộc đời cô sẽ thăng hoa hơn, cũng đúng.

(5) Trước những khổ nạn của các bạn, cô sợ là đúng, nhưng đã sợ, thì lẽ ra cô tinh tấn tu hành hơn là quá tốt. Đằng này cô nguyện bao nhiêu tội nghiệp cho cô được trả hết trong đời này (gọi là dồn nghiệp) để cô vãng sanh, để rồi khi gặp khổ, thì không chịu nổi. Nguyện dồn nghiệp là sai, sai chỗ nào?

- Thứ nhất, không phải hết nghiệp mới được vãng sanh, vì mình có quyền mang nghiệp đi vãng sanh, như Phật, Tổ đã nói, gọi là đới nghiệp vãng sanh.

- Thứ hai, túc nghiệp con người nhiều biết bao nhiêu kể cho xiết, từ từ trả trong nhiều đời nhiều kiếp. Mặt khác, ta nên tinh tấn tu hành để chuyển nghiệp nặng thành nhẹ, nghiệp nhẹ thành không. Những chủng tử ác đó bây giờ còn tồn tại chờ đợi cơ hội (đủ duyên), lúc nợ chưa đáo hạn thì bao giờ thời điểm đã chín mùi (nợ đáo hạn) mới khởi hiện hành (mới phải trả nợ). Đằng này cô nguyện dồn nghiệp (trả nợ trước ngày đáo hạn), thì những việc cô cho là xui xẻo, đều không phải xui xẻo gì hết, mà chư Phật tác nghịch duyên theo đúng sở nguyện của cô đấy.

Tuy nhiên nợ nhiều quá, trả một lần làm sao cô trả nổi. Lỗi tại ai? Có phải vì quan niệm sai lầm của cô không?

Bây giờ phải làm sao? Theo tôi, cô phải khẩn thiết phát nguyện lại, nguyện đức từ phụ A Di Đà cùng chư Phật trong mười phương gia bị cho cô được phục hồi sức khỏe, dõng mãnh tinh tấn niệm Phật đạt Bất niệm tự niệm để cô được đới nghiệp vãng sanh Cực Lạc, thành Phật độ chúng sanh.

Nếu mạng số cô hết, chắc chắn cô được vãng sanh với điều kiện cô phải an nhẫn hành trì niệm Phật A Di Đà cho đến giờ phút cuối cùng, quyết định như vậy không tí nghi ngờ gì cả.

Nhớ! Chính niềm nghi gây chướng ngại vãng sanh.

Đức Thế Tôn đã dạy: "Bình thường cây to, tường lớn nghiêng hẳn về hướng nào, khi gặp mưa to gió lớn quyết định cây đỗ, tường ngã về hướng đã nghiêng hẳn từ trước". (Hãy đọc câu đáp 69A).

Hằng ngày sau thời khóa công phu, tôi sẽ phục nguyện và hồi hướng công đức cho cô sớm đạt thành sở nguyện.

Nam mô A Di Đà Phật

Ghi chú: Trên đây là tôi thuật lại để làm bài học cho quý liên hữu. Nay xin hoan hỉ báo rằng: liên hữu này đã hồi phục sức khỏe như xưa. Khi đang viết câu vấn đáp này, tôi nhận được điện thoại báo rằng cô niệm Phật đã được nhập tâm tuần rồi, nhưng cô chờ kiểm nghiệm lại cho chắc mới báo.
71. Hỏi: Tu Tịnh nghiệp có cần diệt tham, sân, si không? Nếu cần thì làm sao?

Đáp: Tham, sân, si (tà kiến) là tam độc cần phải dẹp trừ. Đối với hành giả Tịnh Độ chỉ cần duy nhất một câu "A Di Đà Phật". Vạn đức hồng danh nầy có công năng diệt tội, sanh phước, tăng trưởng thiện căn và chuyển tám thức thành bốn trí, thành Phật còn có dư.

1. Khi niệm sân vừa móng khởi hoặc đã khởi hiện hành (đã nổi cơn sân), chỉ cần nhiếp tâm niệm Phật là xong. Vì tâm một lúc không thể làm hai việc, khi niệm Phật thì niệm sân tự diệt. Bởi vậy Cổ đức dạy: "Không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm (không nhớ, quên niệm Phật)".

2. Giải pháp trên chỉ là trị ngọn. Sau đây mới là trị tận gốc.

Hành giả niệm Phật là huân tập chủng tử vạn đức vào tạng thức. Tại đây, chủng tử vô lậu này sẽ chuyển hóa (tịnh hóa) chủng tử hữu lậu như tham, sân, si... Tiến trình chuyển hóa này cũng gọi là bạch tịnh hóa hoặc thanh tịnh hóa tạng thức. Khi trong tạng thức không còn chủng tử hữu lậu nữa, (tham, sân, si...) thì tạng thức biến thành vô cấu thức, cũng gọi là bạch tịnh thức (A mạt la thức, thức thứ chín). Tiếp theo đó là Đại viên cảnh trí, thành Phật. Kinh Niệm Phật Ba La Mật nói: "Công đức danh hiệu Phật chuyển hóa thân tâm dần dần thanh tịnh mà mình không hề hay biết" là vậy.

72. Hỏi: Người chuyên tu Tịnh nghiệp có cần tụng Kinh sám hối như Lương Hoàng sám và Thủy sám không?

Đáp: Đối với hành giả chuyên tu Tịnh nghiệp, tụng những Kinh sám hối ấy không phải là chánh hạnh, mà là tạp hạnh.

Pháp sư Tịnh Không nói:

- "Niệm Phật là sám hối, Khi niệm Phật tinh tấn, thường thấy bệnh nghiệp hiện tiền, đó là một hiện tượng chuyển nghiệp, đem tội nặng của quá khứ biến thành tội báo nhẹ hiện tại, vì nguyện lực lớn hơn nghiệp lực". "Khi có tâm sám hối, thề không tái phạm, tức là đã sám hối". "Phải đoạn ác tu thiện mới đúng nghĩa sám hối".

- "Thật ra, hết thảy Kinh pháp đều là vì tiêu nghiệp chướng, nhưng nếu nghiệp chướng quá nặng thì tất cả hết thảy Kinh pháp đều mất tác dụng, chẳng thể tiêu trừ tội nghiệp, nhưng vẫn còn có cách riêng để tiêu trừ".

- Trong sách Quán Kinh Trực Chỉ là sách chú giải Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Ngài Từ Vân Quán Đảnh nói: "Hết thảy tội nghiệp chẳng thể tiêu sạch được, tối hậu, chỉ có niệm A Di Đà Phật mới có thể thật sự tiêu tai".

Liên Trì Cảnh Sách nói: "Muốn tiêu trừ nghiệp chướng phải niệm Phật, lễ Phật". Dùng nhất niệm vạn đức hồng danh chí tôn vô thượng để trung hòa tất cả vọng niệm và thói xấu tham, sân, si từ vô thủy kiếp đến nay. Những nghiệp chướng nặng nề này sẽ dung hòa vào câu thánh hiệu Nam mô A Di Đà Phật, (người niệm) được đức Phật A Di Đà đại từ đại bi và tất cả chư Phật trong muời phương hộ niệm, che chở, bảo bọc, giúp tiêu trừ nghiệp chướng của chính mình.

"Lễ Phật chính là mỗi ngày chuyên lạy Phật A Di Đà để sám hối nghiệp chướng của chúng ta". "Lễ Phật một lạy tội diệt Hằng sa".

Quán Kinh nói: "Niệm một câu A Di Đà Phật diệt được trọng tội sanh tử tám mươi ức kiếp".

Vậy niệm Phật, lễ Phật là đã sám hối rồi, dành thì giờ tụng Kinh sám hối nói trên để niệm Phật, lễ Phật A Di Đà vừa được diệt hết thảy tội, vừa được tiếp dẫn vãng sanh Cực Lạc, có tốt hơn không?

73. Hỏi: Người tu Tịnh nghiệp tụng Kinh A Di Đà và các Kinh Đại thừa khác được không?

Đáp: Nói chung, tụng Kinh Phật, trì các chú ngữ là quý rồi, xét riêng hành giả chuyên tu Tịnh nghiệp thì:

- Tụng Kinh A Di Đà là chánh hạnh mà nghiệp phụ. Niệm Phật A Di Đà là chánh hạnh mà nghiệp chánh.

- Còn tụng các Kinh khác, dù là Kinh Đại thừa cũng là tạp hạnh.

Vả lại, danh hiệu A Di Đà Phật là vua các chú (Tuyết Hư Lão Nhân Tịnh Độ Tuyển Tập). Vậy niệm A Di Đà Phật là cao tột, thù thắng hơn trì tụng bất cứ chú ngữ nào khác (xin đọc phần IV, mục 2. Công đức niệm Phật, sách Niệm Phật Đạt Bất Niệm Tự Niệm Bảo Đảm Vãng Sanh).

Liên Trì Cảnh Sách dạy: "Niệm Phật chính là tụng hết thảy Kinh. Một câu Nam mô A Di Đà Phật là tinh hoa cô đọng của ba tạng Kinh điển".

Liên tông Thập nhất Tổ Tĩnh Am đại sư, Liên tông Thập nhị Tổ Triệt Ngộ đại sư, và Pháp sư Tịnh Không đồng dạy: "Niệm Phật phải niệm không xen tạp, không gián đoạn". Liên tông Bát Tổ Liên Trì đại sư cũng dạy: "Bí quyết của niệm Phật là niệm nhiều, niệm không xen tạp, không gián đoạn". Tụng Kinh là xen tạp gián đoạn quá nhiều rồi.

Vả lại, trong bốn mươi tám đại nguyện của Phật A Di Đà có nguyện nào nói tụng bao nhiêu biến Kinh để được Ngài tiếp dẫn đâu? Mà nguyện thứ mười tám nói: niệm mười niệm là được Ngài tiếp dẫn. Vậy thì, tụng Kinh và niệm Phật, cái nào hợp với bản nguyện của đức Phật A Di Đà, hợp với lời dạy của đức Bổn sư Thích Ca, chư Thầy, Tổ, cái nào trọng yếu hơn?

Hành giả hãy dành thì giờ tụng Kinh để niệm Phật (bốn chữ hay sáu chữ chuyên nhất, gắn gọn dễ nhập tâm hơn). Niệm nhiều, thì huân trưởng hạt giống Phật càng lớn, đạt Bất niệm tự niệm bảo đảm vãng sanh, đúng chí nguyện của mình, đúng bản nguyện của đức từ phụ A Di Đà, đúng lời chỉ giáo của đức Bổn sư Thích Ca, đúng sự mong chờ của chư Thầy, Tổ. Vậy ta còn chần chờ, chọn lựa gì nữa?

74. Hỏi: Người tu Tịnh nghiệp có bắt buộc phải thọ Tam qui, ngũ giới không?

Đáp: Không bắt buộc, nhưng nếu đủ điều kiện, thì nên thọ.

Trong giới luật dạy:

"Quy y Phật khỏi đọa địa ngục,
Quy y Pháp khỏi đọa ngạ quỷ,
Quy y Tăng khỏi đọa bàng sanh" (súc sanh).
Quán Đỉnh Kinh quyển thứ ba nói: "Nếu người thọ Tam quy, Ngũ giới thì đức Phật sắc cho Thiên Đế: Ông sai Thiên thần gồm sáu mươi mốt (61) người, ngày đêm, năm tháng đi theo thủ hộ người thọ giới, đừng để cho các quỷ thần ác đột ngột gây não hại".

Vậy thì, thọ Tam qui sẽ không bị đọa ba đường ác. Nếu thọ thêm Ngũ giới, giữ gìn

trọn vẹn, sẽ được Thiên thần thủ hộ, được sống an lành, không bị quỷ thần ác não hại. Đây là tối thắng duyên giúp hành giả dễ tiến tu, sớm thành tựu Tịnh nghiệp.

75. Hỏi: Người tu Tịnh nghiệp có bắt buộc phải ăn chay trường không?

Đáp: Không bắt buộc, nhưng hành giả Tịnh Độ quyết tâm vãng sanh Tây phương Cực Lạc, thành Phật độ chúng sanh, mà còn ăn thịt chúng sanh là thiếu tâm từ bi. Tâm này không tương ưng với tâm Phật nên khó vãng sanh phẩm vị cao. Tổ thứ tám Liên Trì đại sư dạy: "Ăn thịt chúng sanh đồng tội với sát sanh", "Ác lớn nhất là sát sanh". Ăn chay là ngưng sát sanh, ngừng được nghiệp sát. Vậy ăn chay được càng nhiều ngày càng tốt, trường chay là quý nhất. Lại nữa, Tổ cũng dạy: "Trong các hạnh thiện, phóng sanh là bậc nhất".

Vì sao? Vì chúng sanh tham sống, sợ chết. Phóng sanh là cứu mạng sống chúng sanh, là mình tự tu Tứ vô lượng tâm (từ, bi, hỷ, xả), tự tu một trong Lục độ (bố thí: bố thí tài, bố thí pháp, bố thí vô úy) và tự sám hối (chuộc tội sát sanh trước đây). Được vậy người này hưởng phước đức hiện đời là không bệnh hoạn, được sống lâu. Nếu hồi hướng vãng sanh Cực Lạc, thì đã chuyển phước đức thành công đức. Công ít mà phước nhiều, nhân nhỏ mà quả to. Không cần phải chờ ngày lễ lớn phóng sanh chim, cá mà hằng ngày nên phóng sanh kiến, dán, ruồi, muỗi,... khi chúng vào nhà cũng tốt lắm rồi.

76. Hỏi: Chúng sanh có thể niệm danh hiệu của các đức Phật khác, có thể cầu sanh về các cõi khác. Cần gì riêng niệm đức Phật A Di Đà cầu sanh về Cực Lạc?

Đáp: Ở đây có bảy nghĩa:

- Một là, vì tâm chúng sanh phần nhiều vẩn đục, tán loạn, nếu niệm khắp cả chư Phật, sẽ khó thành tựu tam muội. Vì vậy, chỉ nên chuyên niệm một đức Phật cầu sanh một cõi nước, khiến cho tâm ý buộc vào một cảnh, dễ thành tựu vãng sanh.

- Hai là, vì đại nguyện từ bi của Phật A Di Đà vô tận, tiếp dẫn những chúng sanh niệm Phật, cho đến niệm mười tiếng cũng được vãng sanh. Còn các đức Phật khác không có nguyện đó.

- Ba là, vì cõi Cực Lạc đủ mọi công đức trang nghiêm thù thắng, khác với những cõi khác. Chúng sanh được sanh về đó dễ tiến đạo hơn.

- Bốn là, vì phàm phu không có trí tuệ, nên y theo lời Phật dạy. Cõi Cực Lạc này đã được đức Phật Thích Ca khẳng định và lặp đi lặp lại khắp trong các kinh điển. Chư Phật nhiều như cát sông Hằng thảy đều khen ngợi.

- Năm là, nếu những chúng sanh nào không có duyên với Phật, Phật không thể độ. Còn chúng sanh ở cõi này, chẳng luận già trẻ, sang hèn, trí ngu… người nào cũng biết có Phật A Di Đà, bất chợt cũng (thốt ra) niệm một câu A Di Đà Phật. Thế nên biết, chúng sanh ở cõi này có nhân duyên lớn với Phật A Di Đà.

- Sáu là, thể tánh của tất cả chư Phật đồng nhau. Một là tất cả, tất cả là một, niệm một đức Phật là niệm tất cả chư Phật.

- Bảy là, Phật A Di Đà là Pháp giới tạng thân, nên niệm A Di Đà Phật là niệm tất cả chư Phật.

Do đó ta chỉ nên chuyên niệm A Di Đà Phật, nguyện sanh về Cực Lạc, thì sự lợi ích vô cùng to lớn!

77. Hỏi: Kinh Quán Vô Lượng Thọ dạy tu Tam phước. Phước thứ ba là Phát bồ đề tâm. Vậy, làm sao Phát bồ đề tâm?

Đáp: Bồ đề là tên khác của quả vị Phật. Bồ đề tâm là tâm làm Phật. Phát Bồ đề tâm là phát khởi cái tâm trên cầu thành Phật đạo, dưới giáo hóa chúng sanh (thượng cầu hạ hóa). Đấy là Bồ đề tâm nguyện.

Có một số ít chùa thực hiện lễ Phát Bồ đề tâm theo nghi thức đặc biệt.

- Tịnh Độ tông Thập nhất Tổ Tĩnh Am đại sư dạy: "Tướng trạng Bồ đề tâm có tám loại, đó là: chánh, tà, chân, ngụy, đại, tiểu, thiên, viên". (Xin đọc Khuyến phát Bồ đề tâm văn).

- Tịnh Độ tông Cửu Tổ Ngẫu Ích đại sư dạy: "Người niệm Phật A Di Đà cầu nguyện vãng sanh Cực Lạc để thành Phật cứu độ hết thảy chúng sanh". Đó là đương nhiên đã phát Bồ đề tâm rồi.

Nam Mô A Di Đà Phật

78. Hỏi: Bồ đề tâm hạnh là gì?

Đáp: Bồ đề tâm hạnh là những thiện hạnh nhằm mục đích thành Phật độ chúng sanh.

Nó rộng lớn bao trùm lục độ vạn hạnh của Bồ tát. Hành giả tu năm mươi hai (52) giai vị Bồ tát (Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác) đều tu Bồ đề tâm hạnh để thành Phật. Niệm Phật là hạnh chánh của Bồ đề tâm hạnh.

79. Hỏi: Hành giả chuyên tu khi lâm bệnh, có cần niệm Phật Dược Sư hay tụng Kinh Dược Sư để trị bệnh không?

Đáp: Kinh Vô Lượng Thọ nói Phật A Di Đà là vua trong các vị Phật (Phật trung chi vương). Vậy thì, Phật Dược Sư trị lành bệnh, chẳng lẽ Phật A Di Đà trị bệnh không được sao?

Vả lại, nếu niệm Phật Dược Sư, tụng Kinh Dược Sư là tạp tu, bị xen tạp và bị gián đoạn rồi.

"Linh tại ngã, bất linh tại ngã". Nếu ta có lòng tin nơi Phật A Di Đà thì nên niệm Phật A Di Đà, nhất cử không những lưỡng tiện mà là vạn tiện (được lành bệnh, lại thêm được vãng sanh Cực Lạc).

80. Hỏi: Hành giả chuyên tu Tịnh nghiệp khi bị đau ốm, khổ nạn, có cần niệm Quán Thế Âm Bồ tát để được cứu khổ cứu nạn không?

Đáp: Kinh Thập Vãng Sanh nói: "Đức Phật A Di Đà sai hai mươi lăm vị Bồ Tát trong đó có Quán Thế Âm Bồ tát ngày đêm hộ trì người niệm Phật". Như vậy đâu phải chờ hành giả niệm danh hiệu Ngài, Ngài mới hộ trì đâu.

Kinh cũng nói: "Người niệm Phật mỗi ngày mười vạn (100.000) câu trở lên, Phật A Di Đà sẽ trực tiếp hộ niệm người ấy".

Kinh Vô Lượng Thọ nói Phật A Di Đà là vua trong các vị Phật (Phật trung chi vương). Phật A Di Đà là Thầy của Quán Thế Âm Bồ tát. Quán Thế Âm Bồ tát cứu khổ cứu nạn được, chả lẽ Phật A Di Đà chẳng cứu khổ cứu nạn được sao?

Mặt khác, xét về mặt công đức, các Kinh, luận nói như sau:

- Kinh Thập Luận nói: "Một trăm kiếp niệm Quán Thế Âm, chẳng bằng khoảng thời gian một bữa ăn niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng".

- Tịnh Độ Quần Nghi Luận nói: "Một đại kiếp niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng, chẳng bằng niệm một câu A Di Đà Phật".

Vậy thì, công đức niệm một câu A Di Đà Phật so với công đức niệm một câu Quán Thế Âm Bồ Tát, nhiều gấp trăm, ngàn, vạn, ức, ức... lần, không sao kể xiết. Hiểu vậy người trí chọn niệm nào?

"Linh tại ngã, bất linh tại ngã", nghĩa là linh hay không linh cũng tự nơi mình, tin thì linh, không tin thì không linh.

Thiết nghĩ, hành giả chuyên tu chánh hạnh, chánh định nghiệp, luôn được Phật A Di Đà và chư Bồ tát bảo hộ, hãy để quý Ngài tự an bài, mình chẳng cần lo nghĩ gì khác, mặc kệ mọi tình tình huống, chỉ một bề niệm Phật, tích công lũy đức, cầu vãng sanh Cực Lạc là thượng sách.
81. Hỏi: Thầy nói vậy, sao những vị niệm Phật công phu đắc lực vẫn còn bị những thứ bệnh tật, hoạn nạn hoành hành vậy?

Đáp: Nên hiểu rằng: Luật nhân quả là luật tự nhiên có từ muôn đời (trước khi Đức Phật hiện thế), có Phật hay không có Phật, luật nhân quả vẫn tồn tại khách quan. Đức Phật chỉ là người dạy chúng ta biết, chứ đức Phật không thể sửa đổi được luật nhân quả. Có chăng, Ngài chỉ giúp chuyển hóa phần nào thôi. Ví dụ: nghiệp nặng chuyển thành nhẹ, nghiệp nhẹ chuyển thành không, chứ nghiệp nặng (định nghiệp) không thể chuyển thành không được. Đức Phật vạn năng nhưng không phải toàn năng. Đức Phật chỉ độ được người hữu duyên theo luật nhân quả. Nếu đức Phật toàn năng thì ngày giờ này, đâu có chúng sanh ngồi ở đây, mà chúng ta đã thành Phật hết rồi, phải không?

Hiểu như vậy là tự giải đáp câu hỏi trên. Hiểu như vậy mới là chánh tín, bằng không sẽ lạc vào mê tín.

Hành giả nào tin sâu nhân quả, tin sâu lòng đại từ đại bi cứu độ của chư Phật, chư Bồ tát, quí vị này sẽ phó thác, giao cả sanh mạng này cho chư Phật, chư Bồ tát an bài, quí Ngài vui vẻ chấp nhận mọi nghịch cảnh, an nhiên tự tại Lão thật niệm Phật cầu vãng sanh Cực Lạc, thành Phật độ chúng sanh.

82. Hỏi: Mấy hôm rồi, sau mười giờ đêm, trong lúc mọi người trong nhà ngủ hết, con đang tịnh tọa niệm Phật, bỗng dưng nghe tiếng lộp cộp khi lớn khi nhỏ ở trong nhà, có khi tiếng ấy phát ra từ ngoài cửa sổ, làm con mất chánh niệm. Lên giường nằm lắng lòng nghe tiếng niệm Phật của Tự tánh, con lại cũng nghe tiếng động như trước. Tình trạng này làm con niệm Phật không được và mất ngủ, nên con mệt nhọc, bơ phờ quá! Một vài bạn của con cũng bị như vậy. Vậy phải làm sao, thưa Thầy?

Đáp: Oan gia trái chủ đấy! Nghiệp chướng, nghiệp báo đấy! Nghịch khảo đấy! Người tu công phu đắc lực thường bị (không hẳn là ai cũng bị, tùy theo túc nghiệp của mỗi người). Sự khảo đảo bao gồm sáu loại: nội khảo, ngoại khảo, thuận khảo, nghịch khảo, minh khảo, ám khảo. Hành giả phải nên biết điều này để sẵn sàng vượt qua.

Xin gợi ý vài cách đối trị như sau:

(1) Sau mỗi thời khóa, hành giả nên hồi hướng công đức hành trì cho oan gia trái chủ để giải oan.

(2) Hãy quan niệm rằng: "Nợ thì phải trả, trả xong hết nợ" mới nhẹ gánh, dễ vãng sanh. Không nên lo sợ, buồn phiền trách móc ai cả.

(3) Hãy nghĩ (quán chiếu) nó là giả, là không, thì không có gì phải lo sợ.

(4) Nhiếp nhĩ căn (phớt lờ không để ý nghe nó nữa) một mực niệm Phật hoặc nghe danh hiệu Phật phát xuất từ Tự tánh.

Làm được như vậy, liên hữu mới có thể thành tựu Tịnh nghiệp, bằng không, những ngày qua liên hữu đã bại trận (gãy gánh giữa đường) rồi đấy!

Kính chúc liên hữu thành công như ý.

Ghi chú: Trong lúc sách đang dàn trang để in, có một cú điện thoại viễn liên báo tin: tình trạng trên (tiếng lộp cộp) không còn nữa, cô đang tiếp tục huân trưởng mức nhập tâm, một cách thoải mái.

Tôi thành kính chúc mừng, đồng thời tán thán ý chí, nghị lực và công đức hành trì của liên hữu!

Nam mô A Di Đà Phật.

83. Hỏi: Vài ngày trước, con ngồi tịnh tọa niệm Phật, khoảng hơn sáu mươi phút, bỗng nhiên con cảm nhận như có con rận hay rệp gì bò ở ngực, rất ngứa ngáy khó chịu. Con xả niệm Phật, cởi giũ áo, không thấy gì hết, mấy đêm liên tiếp như vậy. Kính xin Thầy giải thích giúp con.

Đáp: Nội khảo đấy! Người tu công phu có chút đắc lực thường bị khảo đảo. Cách đối trị:

- Nên giữ quần áo, thân thể vệ sinh đúng mức.

- Sau mỗi thời khóa công phu, hồi hướng công đức hành trì của mình cho oan gia trái chủ cùng mình vãng sanh Cực Lạc (giải oan).

- Cắn răng chịu đựng, nhiếp các căn, khẩn thiết niệm Phật, tự nhiên sẽ hết. Quả thật, khoảng một tuần lể sau tình trạng khuấy phá trên tự dứt.

84. Hỏi: Xin Thầy nói rõ cho chúng con biết sáu loại khảo là nội, ngoại, thuận, nghịch, minh, ám khảo là thế nào?

Đáp: Những nghiệp báo thiện ác gây đình trệ sự tu trì của hành gỉả gọi là "khảo" hay "khảo đảo". Xin nói qua sáu loại khảo như sau:

(1) Nội khảo: Nội là trong, nội khảo là những gì từ trong thân tâm mình gây khó khăn con đường tu của chính mình.

Thí dụ: thân sinh ra đau bệnh đủ thứ như: nhức đầu, đau răng, đau bụng, sốt rét, ung thư... Tâm, tánh tình trở nên tham lam, bỏn xẻn, hẹp hòi ích kỷ, si mê, hôn trầm... (Câu hỏi 83A).

Cụ thể đã có những vị ngồi niệm Phật chừng mười lăm phút là ngủ gục, nhức đầu, mắc đi tiểu, có vị nặng hơn, gần như hôn mê, tiểu luôn tại chỗ.

(2) Ngoại khảo: ngoại là ngoài, ngoại khảo là những gì ngoài thân mình, nó gây khó khăn con đường tu của mình, như:

- Thời tiết nóng, lạnh, động đất, lũ lụt... Thân nhân, vợ chồng, cha mẹ, anh em, con cháu; thân bằng quyến thuộc, bằng mọi cách gây khó khăn trở ngại đường tu của mình.

(3) Thuận khảo: Nhờ công đức niệm Phật mà có thêm nhiều phước đức, nên cầu gì được nấy, muốn gì được nấy như:

- Mua may bán đắc, làm ăn phát tài.

- Danh vọng như ý, người đời thì thăng quan tiến chức, người đạo thăng trụ trì, viện chủ, có chùa to Phật lớn, được Phật tử trọng vọng, thậm chí thần thánh hóa mình.

Vì đắm nhiễm danh lợi nên bị sụp bẩy lợi danh, thoái thất việc tu hành. Người ta nói chết vì lửa thì ít mà chết vì nước thì nhiều. Người xưa nói: "Việc thuận tốt được ba. Mê lụy người đến già".

Duyên thử thách của thuận khảo rất vi tế, người tu phải hết sức thận trọng!

(4) Nghịch khảo: Hành giả bị nghịch cảnh gây trở ngại như:

- Thân bằng quyến thuộc ngăn cản, phá hoại đường tu.

- Bản thân mang nhiều bệnh tật khó trị.

- Oan gia theo đuổi mưu hại (ma dựa, ma nhập).

- Kẻ xấu vu oan giá họa khiến bị tù đày.

- Tiểu nhân tranh đua, ganh ghét, rêu rao bêu xấu làm cho khó an nhẫn.

Tuy nhiên nghịch cảnh đôi khi lại giúp người tu tỉnh ngộ thấy rõ cuộc đời này vô thường, khổ não, phải tìm con đường giải thoát sanh tử luân hồi (Vãng sanh Cực Lạc).

(5) Minh khảo: đây là sự thử thách rõ ràng trước mắt, nhưng hành giả không tự tỉnh ngộ. Có nhiều trường hợp, xin kể vài thí dụ như sau:

- Người kém tài thiếu đức mà được kẻ xấu tâng bốc, bợ đỡ khen là nhiều đức hạnh, tài năng, có nhiều phước báo. Người này trở nên cống cao ngã mạn, khinh thường mọi người, làm những điều càn dở, bất chấp sự khuyên nhủ của thiện tri thức, kết cuộc bị thảm bại.

- Người có đạo tâm nhưng kém hiểu biết, nghe kẻ xấu xúi bậy, ngăn trở như nói ăn chay trường thiếu dinh dưỡng, sẽ gây nhiều bệnh, chết yểu... rằng tụng Kinh, trì chú, niệm Phật sẽ bị đổ nghiệp, xui xẻo...

- Tự biết mình không đủ khả năng, nhưng vì tham vọng cao xa, tin nghe những kẻ kém hiểu biết chuyên nịnh bợ, nên làm những việc ngoài tầm tay, kết quả thảm bại, lại không nghe lời khuyên nhủ của thiện tri thức, ương ngạnh, tự ái, liều lĩnh làm càng, phải chịu thảm bại nặng nề, kết cuộc thoái thất Bô đề tâm.

(6) Ám khảo: đây là sự thử thách trong âm thầm, không lộ liễu như một số ví dụ sau:

- Có người ban đầu tinh tấn ăn chay niệm Phật, sau làm ăn thất bại, gia kế sa sút, sanh lòng chán nản, trễ bỏ sự tu, thậm chí trở lại phỉ báng. Người này do không hiểu sâu luật nhân quả, nên sanh tệ trạng như thế.

- Có người, công việc làm ăn dần dần tiến triển thuận lợi, rồi ham mê đuổi theo lợi lộc mà quên lãng đường tu.

- Có người, cuộc sống điều hòa nhưng thời cuộc biến đổi, thân thế nhà cửa nay đổi, mai dời, tâm mãi hoang mang, bất giác lần lựa, bỏ sự trì niệm hồi nào không hay.

85. Hỏi: Ý nghĩa, mục đích của Phật thất là gì? Vì hoàn cảnh sinh sống, con không đến chùa dự Phật thất được, vậy lập Phật thất ở nhà có được không? Nếu được, phải tổ chức thế nào?

Đáp: "Phật thất" có ý nghĩa như sau: Phật là Phật A Di Đà, thất là bảy, "Phật thất" nghĩa là niệm Phật A Di Đà bảy ngày đêm. Mục đích của Phật thất là để tránh mọi duyên, lo chuyên tâm nhất ý niệm Phật sao cho không xen tạp, không gián đoạn, ngõ hầu được nhập tâm. Đối với người đã nhập tâm, tu Phật thất để huân trưởng đạt Bất niệm tự niệm, bảo đảm vãng sanh, thành Phật độ chúng sanh.

Nhập Phật thất là cách tu hiệu năng cao nhất. Do vậy nếu vì hoàn cảnh sinh hoạt không đến chùa hoặc tu viện được, thì nên tu Phật thất tại nhà. Thời gian dài ngắn gì cũng được, càng dài càng tốt, ít nhất là một ngày. Người dù bận rộn cách mấy, một tuần cũng có ít nhất một, hai ngày rảnh rang.

Như ông bà già phải giữ cháu để con đi làm. Hai ngày cuối tuần không đi làm, thì chúng phải tự giữ con, để bố mẹ nhập tu Phật thất, tự tạo hành trang về Cực Lạc.

Về hình thức và nội dung Phật thất, dựa vào cách tổ chức của chùa và tu viện, uyển chuyển tùy theo hiện cảnh gia đình, trọng nội dung hơn hình thức. Đại khái như sau:

- Chuẩn bị một căn phòng sạch sẽ ngăn nắp.

- Bàn thờ Phật trang nghiêm với đầy đủ nhang, đèn, hoa quả, nước cúng Phật. Đèn điện nhỏ để 24/24, đèn cầy và nhang thắp suốt thời gian còn thức.

- Tịnh khẩu suốt thời gian nhập Phật thất, ăn cơm tại phòng (do người hộ thất mang đến).

- Mỗi ngày công phu tối thiểu là mười bảy giờ, trong đó mười giờ cho định khóa Lão thật niệm Phật. Thức lúc 4 giờ sáng, ngủ lúc 9 giờ tối.

- Ngoài giờ định khoá, phải giữ danh hiệu Phật luôn hiện tiền, có thể nghe máy niệm Phật để danh hiệu Phật không bị gián đoạn.

- Chuyên tâm nhất ý niệm Phật A Di Đà (4 chữ hoặc 6 chữ) tuyệt đối không tụng Kinh, chú gì khác. Bất cứ sự việc gì làm xen tạp, gián đoạn danh hiệu Phật, nhất định không làm.

- Y áo chỉnh tề, thắp nhang, đèn, đứng trước bàn thờ Phật lễ ba lạy, phát nguyện: Nam mô A Di Đà Phật. Đệ tử tên là... pháp danh... hôm nay phát nguyện nhập Phật thất... ngày (thời gian). Cúi xin đức từ phụ A Di Đà và chư Phật trong mười phương từ bi chứng giám, hộ niệm cho con thân tâm an lạc, tinh tấn hành trì đạt được... (Bất niệm tự niệm hay nhập tâm), vãng sanh Cực Lạc, thành Phật độ chúng sanh. Nam mô A Di Đà Phật. Lễ Phật ba lạy. Xong tịnh tọa theo định khóa...

86. Hỏi: Lúc lâm chung, niệm mười câu Phật hiệu đã có thể vãng sanh, thế thì chúng tôi cứ lo việc khác, chờ lúc lâm chung niệm mười câu. Ðiều đó thế nào?

Đáp: Lúc lâm chung niệm mười câu Phật hiệu không phải là dễ (Xin đọc Phần III - Lý do không vãng sanh, sách Niệm Phật Đạt Bất Niệm Tự Niệm Bảo Đảm Vãng Sanh).

Vậy muốn lúc lâm chung niệm đủ mười câu Phật hiệu để được vãng sanh, ngay hiện đời phải tập niệm Phật cho thành thói quen. Nếu không, giờ phút lâm chung, bệnh khổ bức bách, tình cảm rối ren, thì khó mà niệm Phật được. Đó là chưa nói trường hợp bị hôn mê bất tỉnh, bất đắc kỳ tử… thì chắc chắn là không niệm Phật được, thì mất phần vãng sanh.

Đức Phật, chư Tổ dạy ta nên gieo hạt giống niệm Phật cho lớn mạnh, chín mùi, (thâm nhập nhất môn, trường kỳ huân tu) đến giờ phút lâm chung, chúng (chủng tử) mới khởi hiện hành (niệm Phật) được.

Mặt khác, điều tối quan trọng là người tu Tịnh nghiệp phải có đủ ba món tư lương là Tín, Nguyện và Trì danh (Hạnh) mới đủ điều kiện được đức Phật A Di Đà tiếp dẫn vãng sanh (Xin đọc Phần II - Tư Lương Tịnh Độ, sách Niệm Phật đạt bất niệm tự niệm bảo đảm vãng sanh).

87. Hỏi: Hạnh khởi giải tuyệt là thế nào?

Đáp: Bắt đầu công phu phải buông bỏ mọi kiến giải (hiểu biết), kể cả kiến giải Tịnh Độ. Buông bỏ không phải là vứt bỏ, mà là không chấp trước, không dính mắc.

Chư Tổ dạy: "Thế trí biện thông là một trong tám nạn". Nghĩa là sự hiểu rõ, biện luận thông suốt việc đời, là một trong tám nạn, (nạn là gây trở ngại đường tu). Tại sao thế? Vì người ấy (người thế trí biện thông) tự cao, tự mãn, chấp chặc vào sự học rộng, hiểu nhiều của mình, sanh ra so đo, tính toán, nghi ngờ pháp mới học, nên không lãnh hội được, (gây chướng ngại cho sự tu học, gọi là sở tri chướng). Người đời là thế, tu sĩ cũng không khác.

Thí dụ: cái ly phải là ly trống (trống, không có gì cả) đổ nước mới vào, bằng như ly đầy nước, dù đổ thêm bao nhiêu nước mới, đều bị tràn ra ngoài hết, không vô tí nào cả.

Ví như, dù là tảng đá hay thỏi vàng, (kiến giải ) cũng vẫn che ngăn sức chiếu soi của gương sáng (Phật tánh, Đại viên cảnh trí).

Chư Tổ dạy: "Hành giả Tịnh Độ có ba hạng người:

(1) Thượng căn, thượng trí.

(2) Phàm phu sát đất, chất phát, thật thà, tín tâm sâu.

(3) Ở giữa hai hạng trên (dở dở, ương ương)".

Hai hạng đầu tu dễ thành tựu, hạng thứ ba là chúng ta đây tu rất khó thành tựu. Tại sao?

Hạng thượng căn, thượng trí thấu rõ chân lý, có trí tuệ nên buông xả được.

Hạng chất phát thật thà, tín tâm sâu, nên không nghi ngờ, họ y giáo phụng hành (bảo sao làm vậy, không so đo, tính toán hơn thiệt gì cả).

Hạng thứ ba, buông xả không được như đã nói trên (ly nước đầy rồi, có đổ thêm, nước mới cũng tràn ra ngoài, không vô tí nào cả), Mặt khác lại thắc mắc, nghi ngờ đủ thứ, gây chướng ngại đường tu (sở tri chướng).

Bởi vậy, Pháp Nhiên thượng nhơn nói: "Trở lại ngu si mà niệm Phật", Cổ đức cũng dạy: "Người học đạo trước tiên phải học ngu". "Ngu si" đây không phải là ngu dốt mà là buông xả hết cho đến không còn gì buông xả được nữa.

"Hạnh khởi, giải phải tuyệt". Được vậy mới mong công phu đắc lực (hữu hiệu), chóng thành đạo quả.

88. Hỏi: Hành giả Tịnh nghiệp tinh tấn niệm Phật cầu vãng sanh Cực Lạc, mà hằng ngày bị người bạn đời ngăn cấm, cản trở, gây khó khăn mọi điều, lại đốt phá Kinh sách, hình tượng Phật. Vậy phải làm sao đây?

Đáp: Có ba trường hợp:

(1) Bồ tát thị hiện để cảnh tỉnh, hoặc thử thách đạo tâm của liên hữu đấy.

Như thiền sư Đơn Hà đốt tượng Phật bằng gỗ để sưởi ấm, nhằm mục đích phá sự chấp tướng của thầy trụ trì.

Hãy an nhiên, bình tĩnh hành trì, không để bị dao động trước nghịch cảnh.

(2) Người hoặc không hiểu đạo, không rõ luật nhân quả, hoặc vì buồn phiền liên hữu điều gì đó, nên làm cho bỏ ghét thế thôi, không có ác ý gì hết.

Hãy bình tĩnh tìm nguyên nhân, hoặc tự kiểm tìm khuyết điểm của mình để sửa sai, hóa giải, là xong.

(3) Oan gia trái chủ đấy! Nghiệp chướng, nghiệp báo đấy! Nghịch khảo đấy!

Hiểu vậy rồi, hãy an nhiên tự tại, mặc kệ họ, không hờn trách, chẳng oán hận ai hết (có chăng, nên tự trách tiền kiếp mình quá dở), nhẫn nại chịu đựng, hoan hỉ trả nợ cho nhẹ gánh để công phu đắc lực hơn, cuối cùng được vãng sanh.

Nên nhớ:

- Tùy duyên nhưng bất biến, "Tùy duyên" nghĩa là linh động, uyển chuyển hành trì sao cho thích ứng với hoàn cảnh, "Bất biến" nghĩa là không để bị chao đảo, tiến chứ không thoái. (Ý nói trọng thực chất hơn hình thức).

- Chư Tổ dạy: "Lấy chướng ngại làm duyên tiến đạo" biến nghịch cảnh làm động cơ thúc đẩy để ta nguyện thiết, hành chuyên hơn.

- Kiên trì, dõng mãnh hành trì, chí thành hồi hướng công đức cho đối nhơn.

- Chư Phật, chư Bồ tát, Thiện thần Hộ pháp luôn hộ niệm ta, đây là sự thử thách, là cây thước đo đức tin, đạo lực của ta. Công phu càng khó khăn, thành tựu càng nhanh và càng vẻ vang ngoài mức tưởng tượng của mình.

- Thành tựu của mình là gương sáng cảnh tĩnh mọi người, là bài học cho bạn đạo.

Nói dễ, làm khó, đây không phải là lý thuyết suông, đã có hai vị thành công rồi, chúng tôi vững tin rằng nếu làm đúng chỉ dẫn trên, chắc chắn sẽ thành công.

Kính chúc liên hữu thành tựu như ý.

89. Hỏi: Con trường chay, niệm Phật cầu vãng sanh Cực Lạc trên mười năm rồi, tháng rồi đủ phước duyên, con được đọc quyển sách "Niệm Phật Đạt Bất Niệm Tự Niệm Bảo Đảm Vãng Sanh" của Thầy, con vui mừng vô hạn, không khác kẻ bần cùng được gặp của báu. Con cố gắng hành trì đúng như Thầy chỉ dạy, ngặt vì con quá bận rộn sinh kế, gia duyên ràng buộc. Sáng, trưa, chiều, tối, cả ngày phải đối diện với việc làm ăn, với vợ con, quyến thuộc, mắt thấy tai nghe đều là việc chướng đạo. Do đó, con niệm Phật không nhập tâm được. Con nhất quyết đời này phải vãng sanh Cực Lạc, liễu sanh thoát tử, nên con định xuất gia, thoát tục để được rảnh rang, công phu đắc lực hơn, hầu đạt Bất niệm tự niệm như Thầy chỉ dạy, nhưng bà xã con không đồng ý, vậy con phải làm sao?, kính xin thầy từ bi chỉ dạy con.

Đáp: Liên hữu quyết chí hiện đời phải đạt Bất niệm tự niệm để bảo đảm được vãng sanh Cực Lạc là điều rất tốt. Mỗi người có nghiệp riêng, phải biết tùy duyên. Đừng nghĩ người xuất gia rảnh rang, thoát tục và công phu đắc lực hơn người tại gia.

a. Về sự rảnh rang:

Người xưa nói: "Vị trước cà sa hiềm đa sự. Trước vị cà sa sự hựu đa". Nghĩa là chưa đắp cà sa than nhiều việc. Đắp cà sa rồi việc lại nhiều hơn. Bận rộn hay thảnh thơi ở nơi tâm mình, không ở nơi thân tại gia hay xuất gia.

Liên tông Thập tam Tổ Ấn Quang đại sư dạy: "Một lòng không trụ muôn cảnh đều nhàn". Nghĩa là làm tất cả mọi việc mà lòng không chấp trước, dính mắc thì luôn luôn an nhàn, (tâm thảnh thơi).

b. Về việc xuất gia thoát tục:

Xuất gia có ba nghĩa: xuất thế tục gia, xuất phiền não gia và xuất tam giới gia. Chủ yếu là hai nghĩa sau, là xuất phiền não gia và xuất tam giới gia. Nếu chỉ xuất thế tục gia thôi thì còn sinh tử luân hồi, trôi lăn trong sáu nẻo.

Người xuất gia có ba hạng:

- Thân xuất gia mà tâm không xuất gia,

- Thân không xuất gia mà tâm xuất gia.

- Thân, tâm đều xuất gia (dĩ nhiên hạng người này tốt nhất).

Vì hoàn cảnh, và chưa đủ phước duyên, liên hữu nên làm hạng người thứ hai. Thân không xuất gia mà tâm xuất gia cũng là tốt hơn hạng người thứ nhất rồi.
Người tu Tịnh nghiệp phải lấy sự nghiệp niệm Phật làm chánh yếu, nên Tổ sư Pháp Nhiên dạy: "Đã tu Tịnh Độ thì mọi chuyện trong đời đều y theo niệm Phật mà quyết định. Ở nhà niệm Phật được, thì cứ ở nhà mà niệm Phật" (có nghĩa là không bắt buộc phải vào chùa, vào chùa mà không niệm Phật được thì ở nhà niệm Phật vẫn tốt hơn). (Niệm Phật Tông Yếu câu đáp 71, Pháp Nhiên thượng nhân).

Xưa nay, mắt thấy tai nghe những người tại gia thành tựu Tịnh nghiệp, vãng sanh Cực Lạc nhiều vô số kể, có bắt buộc phải xuất gia đâu?

Điều quan trọng là:

(1) Tại gia hay xuất gia, mỗi mỗi đều có cái tốt của riêng nó. Tùy phước duyên của mỗi người, không nên thiên chấp. Kinh Hoa Nghiêm dạy: "Tùy duyên nhưng bất biến. Bất biến nhưng phải tùy duyên".

(2) Nhìn thấu: Tức thấy rõ rằng: "Vạn pháp giai không", nghĩa là tất cả các pháp, bản chất của nó là không. Gia đình cũng vốn là rỗng rang, nên ta chỉ làm hết bổn phận, trách nhiệm, mà không đắm luyến trước giờ phút lâm chung.

(3) Buông xuống, tức là xả. Xả không có nghĩa là vất bỏ, mà là không dính mắc, không chấp trước. Người xưa nói: "Quạ lướt mặt hồ không để bóng. Gió lùa khóm trúc chẳng lưu vang" là ý này.

Xả một được một, xả mười được mười, xả tất cả được tất cả (xả đắc).

(4) Tin sâu, nguyện thiết, hành chuyên (đúng theo sự chỉ dẫn trong sách "Niệm Phật Đạt Bất Niệm Tự Niệm Bảo Đảm Vãng Sanh".

(5) Phải có quyết tâm cao, bền lòng vững chí, sẵn sàng san bằng mọi trở ngại, chướng duyên để đạt được mục tiêu cuối cùng là vãng sanh Cực Lạc, thành Phật độ chúng sanh.

Thành kính chúc liên hữu thành tựu viên mãn chí nguyện vãng sanh Cực Lạc, thành Phật độ chúng sanh.

90. Hỏi: Ba má con nay trên bảy mươi tuổi rồi, không tin Phật. Con khuyên niệm Phật, chẳng những ông bà không theo, mà còn mắng con, Vậy con phải làm sao?

Đáp: Đức Phật dạy: "Tùy duyên chứ đừng phan duyên". Phan duyên sanh phiền não. Tùy duyên mới được tự tại. Bậc cha mẹ thường nghĩ là mình bao giờ cũng giỏi hơn con cháu, nên ít khi chịu nghe lời khuyên (khẩu giáo) của con cháu. Việc này không dễ, phải nhẫn nhục, kiên trì nỗ lực không ngừng.

Liên hữu nên cố gắng miên mật (không gián đoạn) hành trì đúng lời chỉ dẫn trong sách Niệm Phật Đạt Bất Niệm Tự Niệm Bảo Đảm Vãng Sanh, công phu đắc lực đạt Bất niệm tự niệm, từ đó, có những điểm lợi sau đây:

a. Tự tạo được từ trường tốt, chuyển hóa dần dần tâm của song thân.

b. Nhờ công đức của danh hiệu Phật, thân tâm liên hữu chuyển đổi tốt, có thể làm gương mẫu cho mọi người (thân giáo). Nhờ đấy, song thân liên hữu sẽ nhận ra lợi ích của sự niệm Phật, tự động nghe lời khuyên của liên hữu.

c. Liên hữu đã có công đức, hồi hướng công đức tu hành cho song thân.

d. Nếu đủ phước và ý chí, liên hữu tiến tu đạt niệm Phật thành một khối (một phiến, một mãng). Pháp sư Tịnh Không nói: “Đây là tiểu chứng, dùng công đức tu hành này hồi hướng cho cửu huyền thất tổ mình đều được siêu thăng”. Vậy thì độ cha mẹ là quá dễ.

e. Bằng không, thì vãng sanh Cực Lạc rồi trở về Ta bà báo hiếu, cứu độ song thân sau.