Thứ Bảy, 27 tháng 7, 2013
Mùa Vu Lan Nhớ Mẹ Cha Nguyện Cho Cha Mẹ Muôn Đời Bình An
Khi em được cài hoa Hồng đỏ
Hãy nhắc lòng chử hiếu hành trì
Cõi ta bà muôn lối nẽo đi
Nhưng tình mẹ vẫn là tình bất tử
***********
Nếu em được cài hoa Hồng trắng
Em đừng buồn hãy thấu lý vô thường
Nguyện sống lành và ban rãi tình thương
Cũng như mẹ của em khi còn sống
**********************
Đừng để nước mắt rơi trên má
Đừng bỏ qua những giây phút êm đềm
Hạnh phúc đi em trong giây phúc ấm êm
Khi còn mẹ bên em trong hơi thở
*****************
Sao em khóc khi cài hoa Hồng đỏ
Sao em buồn khi nhìn lại mẹ yêu
Cố lên em, chăm sóc mẹ muôn điều
Để trả lại ít nhiều công sinh dưỡng
Minh Thông
Truyền thuyết về Quán Âm Dương Liễu (nguồn gốc hình ảnh Bồ Tát Quán Thế Âm phổ biến nhất)
Một hôm, Ngài Quán Âm đến vùng Trung Châu, chọn một động đá trên núi Thái Thất làm nơi hiển hóa. Đêm ấy, Ngài ứng mộng cho dân chúng các vùng lân cận, nói với họ rằng:
– Vài ngày nữa Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ đi ngang chỗ này để điểm hóa cho những người có nhân duyên, cứu họ thoát tất cả mọi khổ ách. Các vị hãy lưu tâm chờ đợi, đừng bỏ lỡ cơ hội Bồ Tát đứng trước mặt mà không thấy. Nhưng thấy hay không là tùy nơi lòng thành tâm của mỗi người, chỉ cần có lòng thành là thế nào cũng gặp.
Nói xong, Ngài hiện ra bảo tướng trang nghiêm, một lúc sau, bảo tướng từ từ biến mất. Hôm sau mọi người gặp nhau, ai cũng bàn tán về giấc mộng đêm qua. Thì ra ai cũng thấy đồng một giấc mộng, vì thế mọi người đều kinh ngạc, và ai cũng mong muốn, chờ đợi Bồ Tát giáng lâm.
Nhưng họ không biết Bồ Tát sẽ hóa thân là người nào để điểm hóa, cho nên người này nhìn người kia bèn nghi là Bồ Tát hóa thân, tạo ra những ngộ nhận khá khôi hài. Mấy ngày trôi qua rồi mà chưa ai phác giác ra Bồ Tát đã hóa thân ở đâu.
Thật ra, Bồ Tát Quán Âm hóa thân làm bà lão ăn xin, đã đến đây từ mấy ngày nay rồi. Lúc ấy đương gặp nạn hạn hán, thật lâu rồi trời không mưa, lúa mạ trong ruộng hầu như đã cháy khô, mùa màng không gặt hái được gì, trước mắt dường như thiên tai sắp giáng xuống, dân chúng thành trên xóm dưới ai nấy đều khủng hoảng. Khi họ thấy bà lão ăn xin thì họ bảo năm nay mất mùa, gặp cảnh thiên tai, chính mình còn đang buồn sầu vì cơm không có mà ăn, lấy đâu dư cơm cho người ăn xin!
Bà lão chần chừ nấn ná trước những cửa nhà như thế thật lâu mà cũng không xin được một miếng ăn nào. Cuối cùng bà không khỏi thở dài, tự nói cho mình nghe:
– Ôi thật đang tiếc, hạn hán tuy là một thiên tai nhưng cũng là do con người tự chiêu cảm lấy mà thôi! Giá như dân chúng ở đây biết kính trọng trời đất, biết làm việc thiện một chút, bớt việc giết chóc, quy y cửa Phật thì trời đâu có giáng tai họa xuống cho họ như thế này! Thật đáng thương cho tôi, một bà già đói khổ, tới đây xin ăn khắp cả mười nhà rồi mà không xin được lấy một hạt thóc hay nửa hạt gạo! Ở đây thiên hạ thật là không biết hướng thiện. Người mà không biết hướng thiện thì tránh làm sao được tai họa?
Lúc ấy có một ông lão tên là Lưu Thế Hiển, nghe được những lời than thở của bà lão cảm thấy có gì kỳ lạ, hơn nữa cũng thấy những lời bà nói thật là có lý. Bất giác ông nghe tâm động, tự nghĩ: “Có khi nào chính bà cụ này là hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát chăng?”. Mấy hôm nay thiên hạ xôn xao tìm kiếm, nhưng không hề có lấy một người chú ý tới người đàn bà già yếu đến từ phương xa này, chỉ vì ai cũng có tâm bợ đỡ người quyền thế!
Ông bèn đến chào bà lão:
– Thưa cụ, những gì cụ nói tôi đã nghe thấy, lời cụ nói rất là có lý. Đúng như cụ nói, ở đất này người ta không biết hướng thiện nên mới chiêu cảm thiên tai, nhưng không biết thiên tai này có tránh được không? Nói cách khác, nếu ai cũng chịu hối lỗi và cải thiện, chẳng biết có cứu vãn được tình thế hay không?
Bồ Tát Quán Âm đáp:
– Lòng trời vốn rất nhân từ, tâm phúc thiện mạnh gấp ba tâm muốn trừng phạt kẻ ác. Chỉ cần người ta thật sự chịu thành tâm hối lỗi thì làm gì mà trời không dung tha, tai họa trước mắt có gì đâu mà không cứu được?
Lưu Thế Hiển nghe những lời ấy rồi, đoán chắc rằng bà cụ già này là Bồ Tát Quán Âm bèn quỳ xuống đất lễ lạy và nói:
– Bồ Tát trên cao, tạ ơn Bồ Tát hiển hóa thị hiện, đệ tử phàm phu mắt thịt không biết được từ dung, suýt nữa không thấy được Thái Sơn trước mắt! May nghe được những lời giáo huấn của Bồ Tát, tâm trí được mở mang, nay con quỳ xin Bồ Tát dùng chút pháp lực giáng xuống một cơn mưa lớn để cứu đất này khỏi nạn hạn hán. Đệ tử nguyện tạo chùa, cúng dường Bồ Tát và khuyến khích ngu dân một lòng hướng thiện, quy y Phật Pháp. Con van xin Bồ Tát từ bi ban ơn!
Nói xong, ông dập đầu lạy không ngừng.
Bồ Tát Quán Âm nghe Lưu Thế Hiển nói thì rất hoan hỉ, trả lời rằng:
– Còn có người có lòng như ông, biết chí thành cầu nguyện mà không vì lợi riêng, thật là hiếm có! Chỉ vì dân chúng ở đất này thật sự quá cứng đầu khó đổi, bị tai họa đâu có gì là lạ! Thôi thì để ta làm cho họ mắt thấy tai nghe cũng được. Ngày mai giờ ngọ ba khắc, ta quyết định hiển hóa ở trên núi Thái Thất, thi triển pháp lực làm một cơn mưa để cứu đất này khỏi nạn hạn hán, nhờ ông đi nói với tất cả mọi người ở đây, bảo họ đến xem, cho họ mắt thấy Phật Pháp vô biên thì lòng tin của họ mới chắc chắn, sau này ông có lấy lời thiện mà khuyến dụ thì cũng dễ cảm hóa họ hơn.
Lưu Thế Hiển lại cúi xuống bái tạ, nhưng Bồ Tát đã biến mất rồi.
Lưu Thế Hiển thuật lại cho mọi người nghe những lời nói của Bồ Tát Quán Âm, nhưng ai cũng nửa tin nửa ngờ:
– Giữa thanh thiên bạch nhật Bồ Tát xuất hiện, sao không ai thấy mà chỉ mình ông thấy?
Lưu Thế Hiển đáp:
– Bà già ôm bát đi xin ăn hồi nãy chính là hóa thân của Bồ Tát đó!
Mọi người nghe nói bà già ôm bát xin ăn ban nãy chính là Quán Thế Âm Bồ Tát thì lấy làm kinh dị, họ tự giận mình có mắt như mù không nhận ra mặt Phật, cơ duyên ngay trước mắt mà lại bỏ lỡ. Lại có người tự trách sao đã không chịu bố thí lại còn bất kính đối với Bồ Tát nên ăn năn hối hận vô cùng. Lưu Thế Hiển an ủi:
– Bồ Tát có tôn chỉ là dùng từ bi để cứu khổ, Ngài sẽ không bắt tội các vị những chuyện lặt vặt như thế đâu, chỉ cần về sau các vị phát lòng tin chân thành là đủ. Ngày mai giờ ngọ ba khắc Bồ Tát sẽ hiện chân thân bảo tướng của Ngài, thi triển pháp lực làm một trận mưa, lúc ấy tất cả đều có thể thấy được từ nhan của Ngài.
Nghe thế mọi người lộ vẻ vui mừng, lập tức đi truyền bá tin này khắp nơi và chỉ trong khoảnh khắc, toàn thành đều biết. Một truyền mười, mười truyền trăm, rồi thì những làng mạc thành thị xung quanh cũng được nghe tin này luôn. Nghe nói Bồ Tát Quán Âm sắp đến đất này cầu mưa, ai nấy đều đổi buồn làm vui, chờ đợi Bồ Tát hiển linh.
Sáng sớm tinh sương ngày hôm sau, dân chúng toàn vùng, nông dân ngừng cày ruộng, phụ nữ ngừng dệt vải, tiệm buôn ngừng bán hàng, ai cũng đốt nến thắp hương, chân thành đảnh lễ, chờ đợi giờ ngọ ba khắc Quán Thế Âm Bồ Tát thị hiện Pháp thân. Nam nữ già trẻ ai cũng ngưỡng cổ nhìn lên trời, đến chớp mắt cũng không dám chớp lấy một lần!
Gần đúng chính ngọ, họ thấy trên đỉnh núi Thái Thất có một áng mây trắng nhẹ nhàng bay lên, rồi từ từ, chầm chậm tỏa rộng ra, càng lúc càng rộng. Đột nhiên giữa áng mây trắng có một con đường thông thẳng lên tới đỉnh núi Thái Thất và kim thân Bồ Tát Quán Âm cao một trượng sáu xuất hiện trên đầu núi. Đầu Ngài đội khăn, thân khoác cà sa, tay cầm một cái bình bằng ngọc màu trắng ngà, trong bình đựng cam lồ và cắm một nhành dương liễu. Ngài đi chân không, đứng trên một tảng đá bằng ánh sáng.
Mọi người nhìn thấy Ngài bèn quỳ xuống lễ lạy, niệm lớn “Đại từ đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát”. Bồ Tát Quán Âm cầm nhánh liễu chấm vào nước cam lồ, hướng về các thửa ruộng ở bốn phương đông tây nam bắc phất tay rảy nước. Lạ thay, mây mù lập tức tụ họp trong không trung, một cơn mưa lớn như xối đổ xuống không ngừng trong cả tiếng đồng hồ, sau đó mây mới tan và mưa mới ngừng, hơi nước bốc lên mù mịt. Trong cơn mưa rào ấy, hình ảnh Bồ Tát từ từ ẩn mất.
Nhờ cơn mưa rào trừ được nạn hạn hán cứu trăm họ trong một vùng đất rất lớn khỏi cảnh thiên tai, nên hình ảnh Bồ Tát Quán Âm từ bi đã khắc sâu trong tâm những người dân ở đấy. Quả nhiên, sau đó họ trở thành những người chân thành tin kính Phật Pháp.
Lưu Thế Hiển bèn quyên tiền xây một ngôi miếu ngay tại chỗ mà đức Quán Âm đã hiện thân trên đỉnh núi Thái Thất, trong miếu có tạc tượng Quán Âm Đại Sĩ, ngày ngày dâng cúng hương hoa. Còn động đá nơi hóa thân Bồ Tát đã dừng chân nay cũng đổi tên là động Quán Âm, hãy còn lưu lại cho đến bây giờ.
Đây là lần thứ nhất Bồ Tát Quán Âm hiện thân ở Trung độ dưới Đại Bi tướng, đó chính là Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát vậy.
Bồ Tát Quán Âm hiển hóa lần thứ nhất tay cầm tịnh bình dương liễu cho nên thế gian còn gọi lần hiển hóa ấy là “Dương Liễu Quán Âm”. Đây là hình ảnh Bồ Tát Quán Âm được lưu hành nhiều nhất nên đã trở thành phổ biến, dân chúng còn gọi là “Thánh Quán Âm”.
(Diệu Hạnh Giao Trinh dịch - Nguyễn Minh Tiến hiệu đính và giới thiệu)
Ý Nghĩa Của Số Tràng Hạt
- 108 hạt : biểu thị 108 pháp Tam muội cầu tu chứng và đoạn trừ 108 phiền não.
- 54 hạt : biểu thị cho 54 nấc thang tu hành của Bồ Tát gồm Thập Tín, Thập Trụ, Thâp Hạnh. Thập Hồi Hướng, Thập Địa và Tứ Thiện Căn Nhân Địa.
- 42 hạt : biểu thị cho 42 nấc thang tu hành của Bồ Tát gồm Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa và Đẳng Giác, Diệu Giác.
- 21 hạt : biểu thị cho 21 quả vị, tức là Thập Địa, Thập Ba La Mật và quả vị Phật.
- 18 hạt : biểu thị cho 6 căn(mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý), 6 thức (nhìn, nghe, nếm, chạm, ý thức), 6 trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) mà người tu cần nhiếp phục
- 14 hạt : biểu thị cho 14 Pháp Vô Úy của Bồ Tát Quán Thế Âm
- 12 hạt : 12 nhân duyên: vô minh, hành, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử
C. Cách lần chuỗi:
Cầm tràng bằng hai tay đưa lên ngang chán hoặc ngang ngực rồi đọc bài khai tràng:
Tràng 18 hạt đọc:
Diệu quả Bồ Đề ly chưởng chưởng
Thủ khai thiên tỏa vạn trùng trùng
Thập bát chuyển luân La Hớn tướng
Thiên quan giáng phước hiện vô cùng
Nam mô Định Tâm Vương Bồ Tát Ma Ha Tát ( 3 lần )
Tràng 108 hạt đọc:
Tay cầm trăm tám hạt bồ đề
Lần tràng tội diệt thoát về Tây phương
Xa lìa sáu nẻo ba đường
Ngồi tòa sen đẹp nương theo Di Đà
Án phệ lô giá na, mạ lạ, mạ lạ, ta phạ ha (7 lần)
Tùy theo thuận tay phải hay trái lần từ mấu tràng trở đi, niệm Phật 1 câu lần 1 hạt, cho đến khi tới đầu tràng thì lần ngược trở lại không được lần qua đầu tràng. Nếu lần qua đầu tràng là phạm tội vượt pháp. Đối với chuổi 18 hạt, lần 6 chuỗi sẽ được 108 lần, chuỗi 12 hạt lần 9 chuỗi sẽ được 108 hạt. Con số 108 là pháp số viên mãn, với các tràng khác không là ước số thì lần vượt qua cũng được.
Dùng tràng niệm Phật có 2 phương pháp phổ biến:
1. Sổ châu niệm Phật:
Mỗi ngày tự đặt ra một hạn định, từ 1 tràng(108 lần) rồi tiến tới 3 tràng, 5 tràng, 7 tràng, 10 tràng, 20 tràng. Cứ như vậy ngày nào cũng niệm cho đến cuối đời chắc chắn được vãng sinh Cực Lạc.
2. Ký số niệm Phật:
Dùng một quyển sổ ghi lại kết quả công phu niệm phật một ngày, cứ như vậy đến niệm không gián đoạn, không bỏ ngày nào chắc chắn được vãng sinh Cực Lạc.
Chú ý: Chuỗi bồ đề cũng được gọi là pháp bảo nên khi dùng phải trân trọng, không nên để chuỗi nơi dơ bẩn, không nên đặt dưới nền, ghế, đem vào nhà vệ sinh, để người bước qua v.v… Nếu làm như vậy sẽ tổn phước.
Thứ Năm, 30 tháng 5, 2013
Đức Phật Dùng Từ Bi Độ Sát Thủ Tà Kiến Angulimala
Thuở xa xưa có một chàng trai con của một vị Bà la môn (giai cấp "tu sĩ" cao nhất ở Ấn Độ) sống dưới triều đại vua Pasenadi, thuộc vương quốc Kosala. Tên của chàng là Ahimsaka (người thất bại). Chàng được gởi đến thành phố Taxila để học hành. Ahimsaka rất thông minh và biết vâng lời thầy, nên chàng được cả thầy lẫn bà vợ thầy yêu mến. Điều này đã khiến cho các học viên các ganh tị với chàng. Vì thế họ tìm đến thầy giáo và vu cáo Ahimsaka có mối quan hệ bất chính trái đạo lý với bà vợ thầy. Thoạt tiên, không thầy không tin họ; nhưng sau khi nghe điều đó nhiều lần, ông nghĩ rằng đó là sự thật và thề sẽ trả thù Ahimsaka. Ông thầy nghĩ rằng việc giết học trò sẽ gây tai tiếng ảnh hưởng xấu cho ông. Cơn giận dữ thúc giục ông đề nghị một việc không thể tưởng tượng nổ đối với chàng thanh niên Ahimsaka trẻ tuổi và ngây thơ kia. Ông ta bảo cậu học trò phải giết một ngàn người và mang về ngón tay cái từng người để trả học phí về việc dạy chàng. Cố nhiên chàng thanh niên không muốn nghĩ đến một việc kinh khủng như vậy. Vì thế chàng đã bị tống cổ ra khỏi nhà thầy và trở về với gia đình cha mẹ.
Khi cha chàng biết được tại sao Ahimsaka đã bị đuổi, ông ta vô cùng tức giận đứa con mình và không chịu nghe lời giải thích lý do. Cũng chính trong ngày ấy, đang lúc trời đổ mưa xuống như trút nước, người cha ra lệnh Ahimsaka phải ra khỏi nhà. Ahimsaka phải ra khỏi nhà. Ahimsaka chạy đến mẹ chàng và xin lời khuyên. Nhưng bà không thể chống lại quyết định của chồng. Sau đó Ahimsaka tìm đến nhà vị hôn thê của chàng (theo cổ tục hứa hôn từ lâu trước khi đi đến hôn nhân thực sự ở Ấn Độ). Nhưng khi gia đình này biết lý do Ahimsaka bị đuổi ra khỏi trường, họ cũng xua đuổi chàng. Nỗi ô nhục, giận dữ, sợ hãi và tuyệt vọng của Ahimsaka đã làm cho chàng điên tiết lên. Trong nỗi đau đớn cùng cực đó, đầu óc của chàng chỉ nhớ lại mệnh lệnh khắc nghiệt của thầy: góp nhặt một ngàn ngón tay người. Và vì thế mà chàng bắt đầu lao vào cuộc chém giết hại như vậy, những ngón tay góp nhặt được chàng treo chúng lên cành cây. Nhưng chúng bị bầy quạ và diếu hâu phá hoại, sau đó chàng đã mang một vòng ngón tay để theo dõi số lượng.
Cũng vì điều này mà y dần dần được biết qua cái tên Angulimala (người đeo vòng ngón tay) và trở thành nổi hãi hùng cho vùng nông thôn này. Chính đức vua đã nghe được việc giết hại của Angulimala và ra lệnh bắt y. Khi bà Mantani, mẹ của Ahimsaka, biết được ý định của vua, bà đi vào trong rừng với những nỗ lực tuyệt vọng để cứu con của bà. Lúc ấy, vòng đeo cổ của Angulimala có một ngón là đủ một ngàn.
Đức phật biết được nỗ lực ngăn cản của người mẹ đối với con bà và nghĩ rằng nếu Ngài không can thiệp vào thì Angulimala, đang tìm người cuối cùng để làm cho đủ số một ngàn, sẽ gặp mẹ mình và y có thể giết bà. Trong trường hợp đó, y sẽ chịu đau khổ còn lâu dài hơn nữa vì nghiệp ác của mình. Do lòng bi mẫn, Đức Phật đi đến khu rừng kia.
Sau nhiều ngày đêm mất ngủ, Angulimala rất mệt và gần như kiệt sức, y rất nôn nóng tìm cách giết người cuối cùng để đủ số lượng một ngàn và hoàn tất phận sự của mình, y quyết giết người đầu tiên mà mình gặp. Khi nhìn xuống từ nơi ẩn mình trong núi, y thấy một người đàn bà trên con đường phía dưới. Y muốn làm trọn lời thề của mình để có đủ một ngàn ngón tay, nhưng khi đến gần, y nhìn thấy người đó chíng là mẹ mình. Lúc ấy, Đức Phật cũng đang đi tới, và Angulimala liền định thần quyết giết chết người du sĩ kia để thay cho mẹ mình. Y liền vung dao bắt đầu đi theo Đức thế Tôn. Nhưng Đức Phật vẫn di chuyển trước mặt y. Angulimala không thể đuổi kịp được Ngài. Cuối cùng, y quát lên: "Này, khất sĩ kia, hãy đứng lại ! Đứng lại !", và đấng Giác Ngộ trả lời: "Ta đã đứng lại từ lâu, chính ngươi mới là người chưa dừng lại thôi !" Angulimala không thể hiểu được ý nghĩa của những lời này. Vì thế y lại hỏi: "Này khất sĩ, tại sao ông nói rằng ông đã dừng lại còn tôi vẫn chưa dừng ?"
Đức Phật đáp: "Ta nói rằng ta đã dừng lại vì ta từ bỏ việc giết hại chúng sanh. Ta đã từ bỏ thói bạo hành, tàn sát mọi loài và ta đã an trú vào lòng từ đối với muôn loài, lòng kham nhẫn và trí tuệ do tư duy quán sát. Song ngươi vẫn chưa từ bỏ việc giết hại va đối xử tàn bạo với người khác cũng như chưa an trú vào lòng từ bi và kham nhẫn đối với mọi loài hữu tình. Do đó, người vẫn là người chưa dừng lại".
Nghe qua những lời này, Angulimala như được nhắc nhở thực tại và suy nghĩ, đây là những lời của một bậc hiền nhân. Vị khất sĩ này hiền thiện và rất mực dũng cảm như thế chắc hẳn vị này là một nhà lãnh đạo các khất sĩ . Quả thực, chính Ngài hẳn là đấng Giác Ngộ rồi đây. Hẳn ngài đến đây chỉ vì mục đích làm cho mình thấy được ánh sáng. Suy nghĩ như vậy, y ném vũ khí và thỉnh cầu Đức Thế tôn tiếp nhận y vào giáo đoàn khất sĩ, Đức Phật đã chấp thuận việc ấy.
Khi đức vua và quân lính đến bắt Angulimala, họ thấy người ấy đang ở trong Tịnh xá của Đức Phật. Biết rằng Angulimala đã từ bỏ ác đạo của mình và trở thành một vị tỳ kheo, vua và quần thần đều đồng ý để yên vị này. Suốt thời gian Angulimala nhiệt tâm thực hành thiền định.
Tôn giả Angulimala vẫn không được an tâm vì ngay cả trong lúc thiền định tĩnh lặng, Tôn giả thường nhớ lại quá khứ cùng với những tiếng gào thét thê thảm của những nạn nhân bất hạnh. Do một quả báo vì ác nghiệp kia, trong lúc đi khất thực trên đường phố, Tôn giả đã trở thành mục tiêu của đủ thứ gậy, đá ném vào và thường trở về Tịnh xá vỡ đầu chảy máu, đầy vết thương bầm tím, rồi lại được Đức Phật nhắc nhở: "Này pháp tử Angulimala, con đã từ bỏ việc ác, hãy kham nhẫn lên. Đây là hậu quả của ác nghiệp mà con đã gây tạo ở đời này. Đáng lẽ ra ác nghiệp sẽ còn làm con khổ đau qua vô lượng kiếp nếu trước đây ta đã không gặp con".
Mọt buổi sáng, trong lúc đang trên đường đi khất thực ở thành Savatthi, Tôn giả Angulimala nghe tiếng ai đang kêu khóc đau đớn. Khi Tôn giả biết đó là một thai phụ đang đau vì chuyển dạ và gặp khó khăn lúc sanh con. Tôn giả suy nghĩ tất cả chúng sanh trên thế gian này đều phải chịu đau khổ. Động lòng từ, Tôn giả kể lại với Đức Phật nỗi khổ đau của người phụ nữ đáng thương kia. Ngài đã khuyên Tôn giả nói lên những lời thề chân thật, lời đó về sau này có tên là Anggulimala Paritta (thần chú hộ mệnh Angulimala). Đi đến trước mặt người sản phụ đang chịu đau đớn kia, Tôn giả ngồi xuống cách bà ấy một tấm màn che và phát nguyện những lời sau: " Này chị, từ ngày tôi đắc quả A la hán, Tôi chưa từng cố ý sát hại mạng sống của sinh linh nào. Nhờ sự thật này, cầu cho chị được an lành và đứa bé sắp sanh của chị cũng được an lành".
Ngay lập tức người sản phụ liền sanh con một cách dễ dàng. Cả mẹ lẫn con đều được khẻo mạnh. Cho đến nay nhiều người vẫn dùng đến thần chú hộ mệnh này.
Tôn giả Angulimala thích sống độc cư và biệt lập. Sau đó Tôn giả viên tịch một cách yên bình. Là một vị A la hán, Tôn giả chứng đắc Vô dư Niết bàn.
Các Tỳ kheo thỉnh ý Đức Phật về nơi tôn giả Angulimala tái sanh, và khi Đức Thế Tôn đáp pháp tử Angulimala đã chứng đắc Vô dư Niết bàn, thì chư vị không thể tin điều đó. Vì thế chư vị lại hỏi liều có thể nào một người đã giết quá chứng đắc Niết bàn Vô dư y chăng. Trước câu hỏi này, Đức Phật đáp: "Này các Tỳ kheo, Angulimala đã tạo quá nhiều ác nghiệp, vì vị ấy không có đã tìm được nhiều thiện hữu tri thức và nhờ sự giúp đỡ cũng như lời khuyên tốt mà vị ấy đã trở nên kiên định và chuyên tâm thực hành giáo pháp và thiền định. Như vậy, nghiệp ác của vị ấy đã được thiện nghiệp lấn át che phủ và tâm của vị ấy đã hoàn toàn đoạn trừ cả lậu hoặc. Đức Phật lại nói về tôn giả Angulimala:
"Ai dùng các hạnh lành
Xoá mờ bao nghiệp ác
Chiếu sáng cõi đời này
Như trăng thoát khỏi mây"
Sức mạnh của lòng từ bi bao giờ cũng mạnh hơn bất cứ ác nghiệp nào. Và đó cũng là điều kiện tuyệt đối để giác ngộ.
(Thích Nguyên Tạng dịch)
Khi cha chàng biết được tại sao Ahimsaka đã bị đuổi, ông ta vô cùng tức giận đứa con mình và không chịu nghe lời giải thích lý do. Cũng chính trong ngày ấy, đang lúc trời đổ mưa xuống như trút nước, người cha ra lệnh Ahimsaka phải ra khỏi nhà. Ahimsaka phải ra khỏi nhà. Ahimsaka chạy đến mẹ chàng và xin lời khuyên. Nhưng bà không thể chống lại quyết định của chồng. Sau đó Ahimsaka tìm đến nhà vị hôn thê của chàng (theo cổ tục hứa hôn từ lâu trước khi đi đến hôn nhân thực sự ở Ấn Độ). Nhưng khi gia đình này biết lý do Ahimsaka bị đuổi ra khỏi trường, họ cũng xua đuổi chàng. Nỗi ô nhục, giận dữ, sợ hãi và tuyệt vọng của Ahimsaka đã làm cho chàng điên tiết lên. Trong nỗi đau đớn cùng cực đó, đầu óc của chàng chỉ nhớ lại mệnh lệnh khắc nghiệt của thầy: góp nhặt một ngàn ngón tay người. Và vì thế mà chàng bắt đầu lao vào cuộc chém giết hại như vậy, những ngón tay góp nhặt được chàng treo chúng lên cành cây. Nhưng chúng bị bầy quạ và diếu hâu phá hoại, sau đó chàng đã mang một vòng ngón tay để theo dõi số lượng.
Cũng vì điều này mà y dần dần được biết qua cái tên Angulimala (người đeo vòng ngón tay) và trở thành nổi hãi hùng cho vùng nông thôn này. Chính đức vua đã nghe được việc giết hại của Angulimala và ra lệnh bắt y. Khi bà Mantani, mẹ của Ahimsaka, biết được ý định của vua, bà đi vào trong rừng với những nỗ lực tuyệt vọng để cứu con của bà. Lúc ấy, vòng đeo cổ của Angulimala có một ngón là đủ một ngàn.
Đức phật biết được nỗ lực ngăn cản của người mẹ đối với con bà và nghĩ rằng nếu Ngài không can thiệp vào thì Angulimala, đang tìm người cuối cùng để làm cho đủ số một ngàn, sẽ gặp mẹ mình và y có thể giết bà. Trong trường hợp đó, y sẽ chịu đau khổ còn lâu dài hơn nữa vì nghiệp ác của mình. Do lòng bi mẫn, Đức Phật đi đến khu rừng kia.
Sau nhiều ngày đêm mất ngủ, Angulimala rất mệt và gần như kiệt sức, y rất nôn nóng tìm cách giết người cuối cùng để đủ số lượng một ngàn và hoàn tất phận sự của mình, y quyết giết người đầu tiên mà mình gặp. Khi nhìn xuống từ nơi ẩn mình trong núi, y thấy một người đàn bà trên con đường phía dưới. Y muốn làm trọn lời thề của mình để có đủ một ngàn ngón tay, nhưng khi đến gần, y nhìn thấy người đó chíng là mẹ mình. Lúc ấy, Đức Phật cũng đang đi tới, và Angulimala liền định thần quyết giết chết người du sĩ kia để thay cho mẹ mình. Y liền vung dao bắt đầu đi theo Đức thế Tôn. Nhưng Đức Phật vẫn di chuyển trước mặt y. Angulimala không thể đuổi kịp được Ngài. Cuối cùng, y quát lên: "Này, khất sĩ kia, hãy đứng lại ! Đứng lại !", và đấng Giác Ngộ trả lời: "Ta đã đứng lại từ lâu, chính ngươi mới là người chưa dừng lại thôi !" Angulimala không thể hiểu được ý nghĩa của những lời này. Vì thế y lại hỏi: "Này khất sĩ, tại sao ông nói rằng ông đã dừng lại còn tôi vẫn chưa dừng ?"
Đức Phật đáp: "Ta nói rằng ta đã dừng lại vì ta từ bỏ việc giết hại chúng sanh. Ta đã từ bỏ thói bạo hành, tàn sát mọi loài và ta đã an trú vào lòng từ đối với muôn loài, lòng kham nhẫn và trí tuệ do tư duy quán sát. Song ngươi vẫn chưa từ bỏ việc giết hại va đối xử tàn bạo với người khác cũng như chưa an trú vào lòng từ bi và kham nhẫn đối với mọi loài hữu tình. Do đó, người vẫn là người chưa dừng lại".
Nghe qua những lời này, Angulimala như được nhắc nhở thực tại và suy nghĩ, đây là những lời của một bậc hiền nhân. Vị khất sĩ này hiền thiện và rất mực dũng cảm như thế chắc hẳn vị này là một nhà lãnh đạo các khất sĩ . Quả thực, chính Ngài hẳn là đấng Giác Ngộ rồi đây. Hẳn ngài đến đây chỉ vì mục đích làm cho mình thấy được ánh sáng. Suy nghĩ như vậy, y ném vũ khí và thỉnh cầu Đức Thế tôn tiếp nhận y vào giáo đoàn khất sĩ, Đức Phật đã chấp thuận việc ấy.
Khi đức vua và quân lính đến bắt Angulimala, họ thấy người ấy đang ở trong Tịnh xá của Đức Phật. Biết rằng Angulimala đã từ bỏ ác đạo của mình và trở thành một vị tỳ kheo, vua và quần thần đều đồng ý để yên vị này. Suốt thời gian Angulimala nhiệt tâm thực hành thiền định.
Tôn giả Angulimala vẫn không được an tâm vì ngay cả trong lúc thiền định tĩnh lặng, Tôn giả thường nhớ lại quá khứ cùng với những tiếng gào thét thê thảm của những nạn nhân bất hạnh. Do một quả báo vì ác nghiệp kia, trong lúc đi khất thực trên đường phố, Tôn giả đã trở thành mục tiêu của đủ thứ gậy, đá ném vào và thường trở về Tịnh xá vỡ đầu chảy máu, đầy vết thương bầm tím, rồi lại được Đức Phật nhắc nhở: "Này pháp tử Angulimala, con đã từ bỏ việc ác, hãy kham nhẫn lên. Đây là hậu quả của ác nghiệp mà con đã gây tạo ở đời này. Đáng lẽ ra ác nghiệp sẽ còn làm con khổ đau qua vô lượng kiếp nếu trước đây ta đã không gặp con".
Mọt buổi sáng, trong lúc đang trên đường đi khất thực ở thành Savatthi, Tôn giả Angulimala nghe tiếng ai đang kêu khóc đau đớn. Khi Tôn giả biết đó là một thai phụ đang đau vì chuyển dạ và gặp khó khăn lúc sanh con. Tôn giả suy nghĩ tất cả chúng sanh trên thế gian này đều phải chịu đau khổ. Động lòng từ, Tôn giả kể lại với Đức Phật nỗi khổ đau của người phụ nữ đáng thương kia. Ngài đã khuyên Tôn giả nói lên những lời thề chân thật, lời đó về sau này có tên là Anggulimala Paritta (thần chú hộ mệnh Angulimala). Đi đến trước mặt người sản phụ đang chịu đau đớn kia, Tôn giả ngồi xuống cách bà ấy một tấm màn che và phát nguyện những lời sau: " Này chị, từ ngày tôi đắc quả A la hán, Tôi chưa từng cố ý sát hại mạng sống của sinh linh nào. Nhờ sự thật này, cầu cho chị được an lành và đứa bé sắp sanh của chị cũng được an lành".
Ngay lập tức người sản phụ liền sanh con một cách dễ dàng. Cả mẹ lẫn con đều được khẻo mạnh. Cho đến nay nhiều người vẫn dùng đến thần chú hộ mệnh này.
Tôn giả Angulimala thích sống độc cư và biệt lập. Sau đó Tôn giả viên tịch một cách yên bình. Là một vị A la hán, Tôn giả chứng đắc Vô dư Niết bàn.
Các Tỳ kheo thỉnh ý Đức Phật về nơi tôn giả Angulimala tái sanh, và khi Đức Thế Tôn đáp pháp tử Angulimala đã chứng đắc Vô dư Niết bàn, thì chư vị không thể tin điều đó. Vì thế chư vị lại hỏi liều có thể nào một người đã giết quá chứng đắc Niết bàn Vô dư y chăng. Trước câu hỏi này, Đức Phật đáp: "Này các Tỳ kheo, Angulimala đã tạo quá nhiều ác nghiệp, vì vị ấy không có đã tìm được nhiều thiện hữu tri thức và nhờ sự giúp đỡ cũng như lời khuyên tốt mà vị ấy đã trở nên kiên định và chuyên tâm thực hành giáo pháp và thiền định. Như vậy, nghiệp ác của vị ấy đã được thiện nghiệp lấn át che phủ và tâm của vị ấy đã hoàn toàn đoạn trừ cả lậu hoặc. Đức Phật lại nói về tôn giả Angulimala:
"Ai dùng các hạnh lành
Xoá mờ bao nghiệp ác
Chiếu sáng cõi đời này
Như trăng thoát khỏi mây"
Sức mạnh của lòng từ bi bao giờ cũng mạnh hơn bất cứ ác nghiệp nào. Và đó cũng là điều kiện tuyệt đối để giác ngộ.
(Thích Nguyên Tạng dịch)
Chủ Nhật, 21 tháng 4, 2013
Phật pháp định hướng con đường tôi đi
Nguồn: http://vn.360plus.yahoo.com/pethiensu_luv_nhokacwy/article?mid=52&prev=53&next=50
Khi biết đến Phật pháp, tôi mới nhận ra cái ngã mạn của tâm mình rất lớn. Cả ngày, tôi chỉ vùi đầu vào học đến 1-2 giờ sáng mới chợp mắt, mới 5 giờ sáng chuông đồng hồ đã reo vang inh ỏi. Do tham, si, lúc nào cũng muốn hơn người, tôi học càng nhiều và càng khao khát những gì bỏ ra phải được đền bù xứng đáng. Đó là sai lầm thứ nhất của tôi.
Chẳng biết từ khi nào mỗi lần tâm bấn loạn, tôi lại nhất tâm niệm danh hiệu Phật A-di-đà? Sinh ra và lớn lên trong gia đình trí thức, mẹ là giáo viên cấp II, ba là giáo viên dạy toán cấp III, tôi thừa hưởng yếu tố di truyền từ cả ba lẫn mẹ. Mặc dù, gia đình không khá giả lắm nhưng từ nhỏ tôi đã được tạo điều kiện để học tập. Lên cấp III, trải qua cuộc thi chuyển cấp, tôi may mắn vượt qua nhiều người để trở thành một trong những học sinh giỏi nhất của lớp chuyên ban tự nhiên. Là học sinh lớp chuyên nên tôi nhận được nguồn tri thức dồi dào và tiến bộ từ đội ngũ giáo viên nhà trường. Toán nâng cao, vật lý nâng cao, hóa nâng cao và sinh học cũng nâng cao. Khác với nhiều bạn bè cùng trang lứa, vì gia đình không đủ điều kiện phải học trường làng, tất cả các môn các bạn đều học cơ bản. Đó là một trong những nguyên do dẫn đến những suy nghĩ sai lầm của tôi sau này.
Qua hai năm học xa nhà, ở trọ với bao lo toan trong việc học hành, ăn ở. Năm lớp 12, chuẩn bị cho kỳ thi đại học quan trọng sắp tới, tôi xin chuyển về trường gần nhà để nhận được sự chăm sóc chu đáo từ gia đình. Bước vào môi trường mới, tôi mang trong tâm và trí một suy nghĩ ấu trĩ “Mình đã từng học trường giỏi hơn, gia đình đủ điều kiện hơn nên mình phải thi đậu đại học điểm cao hơn…”. Cứ ngỡ rằng, suy nghĩ ấy sẽ thôi thúc ý chí quyết tâm ham học của tôi. Và sự thật, thời gian đầu, tôi đã lao mình vào vòng xoáy của việc học tập. Khi ấy, tôi học chỉ để kiếm điểm cao hơn mọi người, để ganh đua và chứng tỏ ta đây là dân chuyên toán, lý, hóa.
Khi biết đến Phật pháp, tôi mới nhận ra cái ngã mạn của tâm mình rất lớn. Cả ngày, tôi chỉ vùi đầu vào học đến 1-2 giờ sáng mới chợp mắt, mới 5 giờ sáng chuông đồng hồ đã reo vang inh ỏi. Do tham, si, lúc nào cũng muốn hơn người, tôi học càng nhiều và càng khao khát những gì bỏ ra phải được đền bù xứng đáng. Đó là sai lầm thứ nhất của tôi.
Tôi là cô bé hơi tròn trịa, học nhiều nhưng dáng vóc chẳng ốm hơn bao nhiêu. Sự chấp vào thân giả tạm khiến tôi cố nhịn ăn để trở thành mẫu người lý tưởng “vừa học giỏi, vừa xinh đẹp”. Đó là sai lầm thứ hai của tôi. Thấy con học nhiều mà ăn ít, ba mẹ tôi rất đau lòng. Nhưng sự u mê của tâm hồn, đánh mất lí trí đã che mờ mắt tôi. Cứ khăng khăng làm điều mình muốn, vẫn thức khuya, dậy sớm học toán, lý, hóa, tôi tự cho mình là hơn người.
Nhưng chuyện đời vô thường, đâu dễ cầu gì được nấy. Do học quá sức và ăn uống không đủ chất dinh dưỡng, càng ngày tôi càng mệt mỏi. Thời gian nộp hồ sơ thi đại học đã đến, tâm tôi bắt đầu bấn loạn, tôi không còn hào hứng như ban đầu. Học nhiều nhưng kết quả chẳng được bao nhiêu. Mỗi lần thua bạn bè, tôi dằn vặt, đau khổ và căm ghét chính bản thân. Sự so sánh hơn thua cứ tái diễn trong đầu tôi. Tôi cảm thấy bất an cho tương lai. Tôi bắt đầu sợ thi cử, sợ thi đại học. Nỗi lo sợ như căn bệnh truyền nhiễm, đã lây lan sang những người thân trong gia đình. Ba mẹ buồn và khuyên tôi nên lấy lại tinh thần. Ba mẹ chỉ mong tôi có thể đậu đại học kinh tế - một trường vừa sức và tầm với không quá cao để tôi không bị gò ép về tinh thần. Không hiểu sao, càng học tôi càng mệt mỏi, càng quyết tâm qua mặt bạn bè thì chính tôi lại là người đứng sau họ. Nỗi lo sợ lấn chiếm tâm hồn tôi. Tôi rơi vào trạng thái mông lung, không biết đâu là chốn dừng chân cho cuộc sống của mình. Giá như, Phật pháp đến với tôi sớm hơn! Giá như, tôi được biết đến chùa Hoằng Pháp! Và một lần được gặp các thầy để nghe những lời dạy bảo thân thương bên tai! Nhưng đó vẫn chỉ là… giá như!
Cái gì đến rồi cũng sẽ đến. Tôi quyết định học thêm toán đại trà do chính ba tôi dạy ở nhà. Ngày hôm đó là ngày quyết định cho chuỗi ngày dài của tôi sau này. Một đề toán thi thử đại học, tôi quyết tâm giải nhanh, giải đúng để xứng đáng là con nhà toán. 3 phút… 5 phút trôi qua, một thằng bạn trong lớp đưa ra kết quả đúng. Tôi cảm thấy bực mình, tay chân cuống quýt. 6 phút… 7 phút nữa trôi qua, tôi đưa ra kết quả… sai! Tâm ghen tức, ganh tị trong tôi trỗi dậy, tôi không muốn thua, tôi muốn là người thắng cuộc. Buổi học kết thúc trong sự nặng nề và bực dọc. Học xong tôi chạy thẳng vào phòng, quơ tay, quơ chân đạp vào tường, khóc tức tưởi. Ba mẹ thấy cảnh tượng đó, ngạc nhiên và xót xa nhưng kiên quyết bảo “Với tính cách hơn thua ấy, sau này con sẽ dễ dàng thất bại!”. Thất bại ư? Tôi dằn vặt mình và tự nhủ “Được thôi! Cuộc sống này không chấp chứa tôi, không cho tôi là người thắng cuộc thì tôi sẽ đi… tu!”. Một phút suy nghĩ bồng bột!
Sáng ngày hôm sau, tôi đến trường với bộ mặt nặng nề, gặp chuyện không vui. Trưa về nhà không ăn uống, ba mẹ buồn rầu cũng không thèm hỏi han, quan tâm. Đúng chiều ngày hôm đó, tôi xách đồ ra đi với lá thư từ biệt để trên bàn. Không hiểu vì cớ gì, nhân duyên gì, từ khi bước chân ra khỏi nhà, tâm tôi đã hướng về cửa Phật. Đi xe buýt trên con đường hai năm trước mình từng đi học xa nhà, tôi chọn tịnh xá Ngọc Định làm nơi trú chân cho mình qua giai đoạn tâm trạng đau khổ này. May thay! Các Ni ở tịnh xá mở lòng từ bi, thương tình chấp chứa đứa con bỏ nhà ra đi. Ở đó, được làm công quả, được ăn chay niệm Phật, tâm tôi dần tĩnh lặng, trải lòng mình để tiếp nhận ánh sáng Phật pháp vi diệu!
Được sống tĩnh lặng là như thế nhưng tôi nào biết ba mẹ, người thân đau khổ khi biết tin tôi bỏ ra đi! Họ sợ tôi làm điều dại dột! Mẹ tôi khóc ngày, khóc đêm, ba tôi xách xe chạy khắp các nẻo đường tìm tôi, em tôi khóc đỏ mắt phải nghỉ học. Ai thấy cảnh tượng ấy mà không xót xa, đau lòng?
Tôi ở tịnh xá một ngày, hai ngày rồi ba ngày, các Ni khuyên tôi về nhà kẻo gây tội bất hiếu với ba mẹ. Gọi điện về nhà, nghe giọng tôi mà mẹ thổn thức, nghẹn ngào. Tôi cũng khóc và quyết định quay về chốn thân thương thưở nào. Ba mẹ ôm chầm tôi khóc nức nở. Tôi hối hận và hổ thẹn vô cùng khi bỏ ba mẹ mà đi trong sự cay đắng và hờn giận. Còn ba mẹ lại mở rộng “vòng tay yêu thương” mà không hề oán giận tôi một lời.
Ngày thi đại học gần kề, tôi nộp hồ sơ thi đại học kiến trúc, khối H (Văn, Vẽ, Vẽ) - một trường trái hẳn với năng lực và sở trường của tôi. Đơn giản vì không muốn mọi người nhìn thấy sự thất bại với chuyên môn của mình. Tôi trở thành người “độc nhất, vô nhị” khi chọn thi khối năng khiếu. Tâm hơn thua của tôi vẫn chưa bỏ. Tôi sợ, tôi sợ thi khối tự nhiên thấp điểm hơn bạn bè, sẽ bị cười chê. Ba mẹ một lần nữa lại đau lòng trước quyết định của tôi. Nhưng, họ không cản trở hay la mắng tôi nữa. Kỳ thi đến nơi, tôi đã rớt đại học trong khi bạn bè thi đậu trường này, trường kia. Tôi oán trời, trách đất! Tôi oán hận, tại sao tôi lại sinh ra trên cõi đời này để nhận lấy sự thất bại? Thất bại trong tủi nhục và đau đớn.
Chuỗi ngày dài sau khi biết tin rớt đại học, tưởng chừng như tôi đang sống giữa địa ngục trần gian. (Mọi lời bàn ra, tán vào như mũi kim đâm sâu vào tim tôi. Chỉ vì tôi là con giáo viên dạy toán cấp III. Nào đồng nghiệp, nào học sinh của ba nhìn vào mà chỉ trích - Tôi tưởng tượng như vậy và nhận đau khổ về mình!) Nhìn nỗi buồn hằn trên khuôn mặt người thân mà tôi như muốn chết đi, sống lại. Nhưng cuối cùng, tôi cũng quyết định thi lại.
Thật may mắn, trong thời gian này, tôi được xem đĩa Phật pháp nhiệm màu do cô Nguyễn Hướng Dương trình bày. Cuộc đời cô gặp nhiều trở ngại, cay đắng hơn tôi. Cô chỉ ra đâu là được và mất, đạo lý nhân quả của nhà Phật mà bản thân cô cũng từng là nạn nhân của nghiệp báo ứng hiện đời.
Tôi cũng tình cờ được xem các đĩa chương trình Ánh sáng Phật pháp do quý thầy chùa Hoằng Pháp thuyết giảng. Tôi từ từ ngộ ra chân lý vi diệu của Phật pháp, bỏ tâm sân si, ganh ghét, đố kị, xem nhẹ cái thân giả tạm này. Khi học theo đạo lý Phật dạy cuộc đời là vô thường, tôi không còn đau khổ, hiểu được luật nhân quả báo ứng, “đâu biết chừng quả mà tôi gặt hôm nay là nhân tôi gieo ngày trước!”. Tôi còn mừng rỡ mà đón nhận sự thất bại trong thi cử, bởi một lần trượt nhưng tôi còn có cơ hội làm lại cuộc đời vững chãi hơn. Giả như không rớt đại học mà chịu đau khổ do mất người thân liệu tôi có còn cơ hội để đáp đền công ơn sinh thành của bậc phụ mẫu. Cảm ơn lưới trời lồng lộng đã cho tôi cơ hội để nhìn lại cuộc đời mình. Hơn thế nữa, tôi đã học được ở quý thầy sự bình tĩnh khi giải quyết một vấn đề.
Và thật sự thành kính tri ân Ngài - đức Phật Thích-ca Mâu-ni, nhờ ánh hào quang của Ngài soi sáng mà ngày nay con đã tìm thấy niềm vui trong ngôi trường mới - Đại học Ngân Hàng.
Thy Mai
Đạo Phật và tuổi trẻ - HT Thích Thanh Từ
Lâu nay đa số người Việt Nam cho rằng: Ðạo Phật là dành riêng cho các bậc già nua tuổi tác, nhờ câu kinh tiếng kệ an ủi những ngày tàn; hoặc kẻ bị tình đời đen bạc hay người đã mấy phen vấp ngã trên bước công danh quay về nương tựa cửa thiền, nhờ giọt nước cành dương rưới dịu đôi phần sầu hận; hoặc những người đau ốm tật nguyền sống thừa thãi ngoài xã hội về núp bóng từ bi, nhờ hột cơm, manh áo của đàn-na tín thí để đỡ phần cơ cực.....
Quan niệm ấy đã ăn sâu trong tâm não dân chúng, nên khi thấy một thanh niên cạo tóc xuất gia, hoặc đến chùa lễ Phật thì họ xầm xì cho là chán đời, là bi quan, là trốn nợ xã hội. Nhưng họ đâu ngờ đạo Phật là "đạo của tuổi thanh xuân đang căng nhựa sống và tha thiết yêu đời".
Nói thế, không phải cố gò bó đạo Phật cho gần với tuổi trẻ, mà vì thật tánh của đạo Phật rất thích hợp với hàng hoa niên. Sự thích hợp ấy bởi những điểm:
Thanh tịnh: Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người. Nhưng từ lúc thanh niên, người ta phải cất mình ra khỏi cổng nhà cha mẹ, bắt tay vào việc cạnh tranh, chiến đấu với đời, từ đó những tánh xấu, tham lam, sân hận... càng ngày tập nhiễm càng sâu, đến đen tối cả tâm hồn. Lúc tuổi già muốn gột rửa nó là cả một sự khó khăn. Như chiếc áo trắng đã nhuộm chàm, muốn giặt tẩy trắng lại không phải là việc dễ. Trái lại, tuổi thiếu niên tâm hồn còn trong trắng, những tính xấu nếu có, cũng chỉ một vài điểm nhỏ thôi. Nếu họ sớm biết thức tỉnh quyết tâm tẩy trừ thì rất dễ dàng, như chiếc áo trắng vừa vấy vài vết nhơ, giặt tẩy rất mau sạch. Vì thế tuổi thiếu niên rất thích hợp với đức thanh tịnh của đạo Phật.
Chân thật: Ðạo Phật là đạo như thật, người tu theo đạo Phật cần phải xa lìa những điều giả dối để trở về với sự thật. Phật cấm nói dối và dạy quán vô thường, bất tịnh, khổ... đều nhắm mục đích này. Tuổi trẻ là ngây thơ chất phác, nghĩ sao nói vậy, nên ít biết dối trá xảo quyệt; nhưng đến lúc thành niên, để bắt chước theo thói xã giao, hoặc vì sự mưu sanh, người ta lần lần tập nhiễm những điều xảo trá và xa dần sự thật. Khi đi xa mà muốn quay về là nhọc nhằn hơn lúc ở gần; vì thế tuổi trẻ còn chất phác, nhiều thành thật, nên rất gần với đạo Phật.
Từ bi: Ðạo Phật là đạo Từ bi, là đạo cứu khổ chúng sanh bằng mọi phương tiện và mọi hình thức. Người tu theo đạo Phật là hy sinh đời mình để mưu hạnh phúc cho chúng sanh, và mở tâm lượng bao la trùm tất cả mọi loài trong tình thương bình đẳng. Với tâm lượng ấy, với chí hy sinh ấy, người lưng còng, má cóp có thể đảm đang nổi chăng? Người ốm đau bệnh tật có thể gánh vác được không? Và người thực hiện được điều này có thể gọi là bi quan yếm thế chăng? - Cố nhiên phải là người niên tráng lực cường, thân hình căng đầy nhựa sống, mới đủ khả năng sớt cơm, chia áo và gánh vác những điều khó khổ nhọc nhằn cho chúng sanh. Hơn nữa, tuổi thiếu niên là tuổi phóng tầm mắt nhìn khắp vũ trụ bao la và muốn ôm cả nhân loại vào lòng; nhưng đến khi đã cột mình trong bổn phận làm vợ, làm chồng, làm cha, làm mẹ... thì chí cả ấy bị đóng khung trong gian nhà chật hẹp của gia đình, rồi dần dần nó bị tiêu ma như hạt sương tan theo dưới ánh nắng. Ðang khi tâm hồn khoáng đãng của tuổi thanh xuân mà gặp được tình thương vô bờ bến của tâm lượng Từ bi thì, ôi! Sung sướng nào hơn nữa?
Tinh tấn: Phật quả là một quả vị vô thượng. Người muốn đạt được quả vị này phải trải lắm công phu nhọc nhằn khổ sở, với thời gian dài đằng đẵng, đâu phải tu một sớm một chiều mà chứng được, trừ những bậc Bồ-tát thị hiện. Công trình tu tập như một bộ hành trèo núi cao mấy mươi cây số; muốn đến được đỉnh, người bộ hành phải dẫm qua lắm đoạn đường chông gai, đá sỏi, vượt qua nhiều vách đá cheo leo và trải qua những đèo cao, hố thẳm, nhiên hậu mới mong ngồi bóng mát trên đầu non chót vót và ngắm xem bức sơn thủy muôn màu ngàn sắc của trần gian. Như vậy, muốn thực hiện được công phu này, phải đòi hỏi ở người có cặp chân cứng rắn, đôi mắt tinh anh, sức lực dồi dào và đủ tinh thần quả cảm. Thanh niên là tuổi máu nóng đang lên, nhựa sống căng thẳng, đời sống còn dài, nên dễ thực hiện được công tác này. Ðức Thích-ca ngày xưa nếu đợi sáu, bảy mươi tuổi mới đi tu, chắc ngày nay chúng ta không biết được mùi pháp vị là gì.
Trí tuệ: Ðức Phật là đấng đã giác ngộ. Người tu theo đạo Phật là noi theo con đường sáng suốt của Ngài đã qua để đến thành trì giác ngộ. Muốn được giác ngộ cần phải có trí tuệ, vì trí tuệ là ánh sáng quét sạch màn đêm và soi tỏ mọi vật, khiến chúng hiện bày chân tướng dưới mắt người. Tuy nhiên, muốn có trí tuệ ta cần phải có thân hình tráng kiện, như nói: "Một tâm hồn sáng suốt trong một thân thể tráng kiện"; hay ngược lại, cũng thế. Như vậy tuổi trẻ rất dễ phát khởi trí tuệ, người già yếu trí tuệ cũng bị ảnh hưởng phải lu mờ. Bằng chứng, cùng một bài học mà người trẻ học mau thuộc, người già học rất lâu. Do đấy nên tuổi trẻ là tuổi rất thích hợp với đạo Phật.
Mặc dù đạo Phật rất thích hợp với tuổi trẻ, nhưng với bậc lão thành, với người khổ sở, với kẻ chán đời... vẫn được đạo Phật tiếp độ. Vì đạo Phật là đạo bình đẳng, giáo lý Phật là giáo lý phổ biến vậy. Mái tóc xanh gần đạo Phật ở đức thanh tịnh... thì người đầu bạc cũng nhờ "tín" của đạo Phật mà vui vẻ những ngày tàn. Tuổi hoa niên thể theo đức từ bi mở rộng lòng thương, thì người khổ sở cũng nhờ bàn tay từ bi ấy xoa dịu đôi phần đau khổ. Hàng tráng niên đến với đạo Phật là cầu giác ngộ, cầu thành Phật quả; người chán đời đến với đạo Phật để nhờ câu kinh thâm diệu, nhịp mõ trầm hùng, tiếng chuông cảnh tỉnh mà lần lần cổi sạch mọi nỗi oán hờn.
Tóm lại, đạo Phật là đạo chung tất cả, nhưng thích hợp nhất là tuổi trẻ. Vì tuổi trẻ mới có đủ phương tiện thực hiện triệt để giáo lý cao siêu của Phật, và tuổi trẻ mới đủ bầu nhiệt huyết hăng hái quả cảm trên con đường tự giác, giác tha, dù gặp mọi gian nguy khó khổ. Do đó nên Phật dạy bốn pháp kiên cố đến quả Bồ-đề, "tuổi trẻ biết mộ đạo tu hành" là một trong bốn điều ấy vậy. Tuổi trẻ là tuổi thích hợp với đạo Phật, vậy những bạn thanh niên không nên luống phí thời giờ, phí thời kỳ quí báu ấy, đợi đến khi sức kiệt hơi tàn, có hối tiếc cũng không kịp.
Phật dạy: "Ngươi nói: 'Tôi còn trẻ cần phải chơi bời vui vẻ, đến ngày già sẽ tu'. Nhưng cái chết có khác nào kẻ cướp cầm gươm bén theo rình rập ngươi, một miếng mồi ngon của nó; như vậy làm sao ngươi chắc mà đợi đến ngày già đặng đưa tâm trí qua đường Ðạo đức?"
Chuyện về hai hạt lúa
Có hai hạt lúa nọ được giữ lại để làm hạt giống cho vụ sau vì cả hai đều là những hạt lúa tốt, đều to khỏe và chắc mẩy.
Một hôm, người chủ định đem chúng gieo trên cánh đồng gần đó. Hạt thứ nhất nhủ thầm:
“Dại gì ta phải theo ông chủ ra đồng. Ta không muốn cả thân mình phải nát tan trong đất. Tốt nhất ta hãy giữ lại tất cả chất dinh dưỡng trong lớp vỏ này và tìm một nơi lý tưởng để trú ngụ.” Thế là nó chọn một góc khuất trong kho lúa để lăn vào đó.
Còn hạt lúa thứ hai thì ngày đêm mong được ông chủ mang gieo xuống đất. Nó thật sự sung sướng khi được bắt đầu một cuộc đời mới.
Thời gian trôi qua, hạt lúa thứ nhất bị héo khô nơi góc nhà bởi vì nó chẳng nhận được nước và ánh sáng. Lúc này chất dinh dưỡng chẳng giúp ích được gì- nó chết dần chết mòn. Trong khi đó, hạt lúa thứ hai dù nát tan trong đất nhưng từ thân nó lại mọc lên cây lúa vàng óng, trĩu hạt. Nó lại mang đến cho đời những hạt lúa mới…
Đừng bao giờ tự khép mình trong lớp vỏ chắc chắn để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của bản thân mà hãy can đảm bước đi, âm thầm chịu nát tan để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ – đó là sự chọn lựa của hạt giống thứ hai.
Tôi hi vọng đó cũng sẽ là sự lựa chọn của bạn và tôi khi đứng trước cánh đồng cuộc đời bao la này…
Sưu tầm
Lời dạy của Đức Phật về dấu ấn “chuyển Pháp luân”:
Như chúng ta đã biết, khi còn trên đường đi tầm đạo, Tất Đạt Đa có gặp năm anh em A Nhã Kiều Trần Như, có cùng trao đổi tu tập và có hứa với nhau khi nào có người chứng quả vị Vô Thượng Bồ Đề thì sẽ trở lại và truyền đạt cho nhau. Sau khi chứng quả thành Phật, Đức Phật liền đến với năm anh em Kiều Trần Như nơi vườn Lộc Giả. Và tại đây, Đức Phật thuyết bài pháp đàu tiên là “Tứ Diệu Đế” tức “Bốn điều chân lý” tối thượng, chỉ rõ hiện trạng mọi sự khổ trên đời, nguồn gốc huân tập nên sự khổ, phương pháp chấm dứt khổ và con đường an trú đạo quả hạnh phúc lâu dài. Đó là:
* Khổ đế: “Thế giới này đầy rẫy những sự khổ ải. Sinh cũng khổ, già cũng khổ, bệnh cũng khổ, rồi tử cũng khổ. Phải gặp điều mình ghét cũng khổ, phải xa cái mình yêu thích cũng khổ, không tìm được cái mình muốn tìm cũng khổ. Đúng là cuộc đời này vì không xa lánh được sự chấp nê nên khổ. Đó gọi là chân lý của sự khổ” (Kinh Tương Ưng Bộ)
Các pháp Đức Phật dạy về chân lý khổ đế này hàng ngày luôn ở quanh ta, trong cuộc sống của ta. Do vô minh nghiệp thức che lấp nhiều đời khiến chúng ta lầm chấp ôm chặt vào lòng “ngã và ngã sở” cho nên bị “tám khổ” nơi bánh xe khổ để hành hạ từ đời này qua kiếp khác, không còn biết đâu đàu mối là thế. Nếu muốn hết khổ, chúng ta phải tự mình biễt dừng lại, phăng tìm nguồn gốc cấu thành sự khổ để quày lại, không tạo tác “nhân” nữa thì mới mong thoát khỏi “quả” khổ của sanh tử nhiều đời.
* Tập đế: “Tại sao đời người lại khổ? Đó chắc là do sự phiền não trong tâm người mà ra. Sở dĩ có những nỗi phiền não là bắt nguồn từ những sự ham muốn dục vọng bẩm sinh. Lòng dục vọng này phát sinh từ sự chấp nê đối với sự sống, dục vọng, muốn nghe, muốn thấy, ngay cho dù phải chết chăng nữa. Điều này gọi là nguyên nhân của sự khổ” (Kinh Tương Ưng Bộ)
Khi chưa biết nguyên nhân thì chúng ta còn thắc mắc, không biết tại sao mình bị khổ hay khổ nhiều, khổ ít? Nay đã biết rõ nguyên nhân rồi, thiết nghĩ mỗi người mình, nhất là Phật tử, chúng ta cần nên cố gắng tập tu, tập học để hạn chế từ lần, rồi đưa đến chấm dứt mọi nguyên nhân có thể đem đến khổ đau cho mình, bà con thân quyến mình và tất cả mọi người quen lạ, xa gần xung quanh trong cuộc sống.
* Diệt đế: “Chúng ta phải diệt trừ tận gỗc sự phiền não. Nếu con người bỏ được tất cả sự chấp nê thì sẽ hết khổ. Đây gọi là chân lý diệt khổ” ( Kinh Tương Ưng Bộ ).
Sự thật không ai trong cuộs sống chúng ta lại thích cưu mang phiền não trong lòng. Nhưng dứt diệt phiền não, dứt diệt sự khổ cũng không phải là điều dễ dàng. Thông thường, những lời nói quấy hay những hành động quấy, nó đã được tích tụ và ngủ ngầm trong nghiệp thức từ lâu đời, kể cả sự chấp nê và lòng phiền não. Nay, nếu chúng ta không quyết tâm, không chịu dùng pháp Phật để soi sáng nhân quả nghiệp chướng nhiều đời để dứt trừ thì không biết đời nào mình mới được hết khổ !
* Đạo đế: “Muốn vào cõi vô dục vô khổ, con người phải tu ‘Bát chánh đạo’, tức là đạo 8 chơn chánh. Một là thấy chơn chánh, hai là suy nghĩ chơn chánh, ba là lời nói chơn chánh, bốn là làm việc chơn chánh, năm là đời sống chơn chánh, sáu là siêng năng chơn chánh, bảy là niệm nhớ chơn chánh và tám là giữ tâm định chơn chánh. Đó gọi là con đường đạo 8 chơn chánh, là chân lý chánh đạo diệt dục. Phải thấm nhuần 8 điều chân lý này” ( Kinh Tương Ưng Bộ ).
Đời là bể khổ, người nào muốn tránh khỏi khổ nạn thì cần phải dứt bỏ được sự phiền não trong lòng, lời nói xấu xa và hành động tội lỗi. Làm con người, làm Phật tử muốn đến được cõi vô dục vô khổ thì chỉ có cách tự biết tu dưỡng thâm tâm để đạt được sự giác ngộ.
Thế nên, người con Phật thành tâm theo đạo thì phải học và hiểu được “bốn chân lý” cao cả này. Nếu làm Phật tử mà không hiểu được thì dễ bị đi vào con đường lầm lạc khổ đau. Khi hiểu được “bốn chân lý” diệu mầu này thì con người sẽ biết vân dụng ứng xử trong cuộc sống, tự mình biết chuyển hóa mình và con người bắt đàu biết tự mình xa lánh sự ham muốn, không bon chen với thế gian, không sát sanh, không trộm đạo, không dâm tà, không lừa đảo, không khinh khi, không xu nịnh, không ghen ghét, không nóng giận, không quên điều vô thường của đời người, không lầm đường lạc lối và không gây tạo tội lỗi trong cuộc sống.
Theo daophatkhatsi
Lời Phật dạy có nguyện và không cầu xin…
Lời Phật dạy
Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anà-thapindika.
Rồi gia chủ Anàthapindika đi đến đảnh lễ, Thế Tôn nói với gia chủ Anàtha-pindika đang ngồi một bên: Có năm pháp này, này Gia chủ, khả lạc, khả hỷ, khả ý, khó tìm được ở đời. Thế nào là năm? Tuổi thọ; dung sắc; an lạc; tiếng đồn tốt; cõi trời khả lạc, khả hỷ, khả ý khó tìm được ở đời. Này Gia chủ, năm pháp này, khả lạc, khả hỷ, khả ý khó tìm được ở đời. Này Gia chủ, năm pháp khả lạc, khả hỷ, khả ý khó tìm được ở đời này, Ta tuyên bố không phải do nhân cầu xin, không phải do nhân ước vọng mà có được.
Này Gia chủ, nếu năm pháp khả lạc, khả hỷ, khả ý khó tìm được ở đời này, do nhân cầu xin, do nhân ước vọng mà có được, thời ai ở đời này lại héo mòn vì một lẽ gì? Này Gia chủ, vị Thánh đệ tử muốn có thọ mạng, không có thể do cầu xin thọ mạng hay tán thán để làm nhân đem lại thọ mạng.
Vị Thánh đệ tử muốn có thọ mạng cần phải thực hành con đường dẫn đến thọ mạng. Do vị ấy thực hành con đường dẫn đến thọ mạng, sự thực hành ấy đưa vị ấy nhận lãnh được thọ mạng, vị ấy nhận lãnh được thọ mạng hoặc Chư Thiên, hoặc loài Người.
Này Gia chủ, vị Thánh đệ tử muốn có dung sắc, không có thể do cầu xin dung sắc hay tán thán để làm nhân đem lại dung sắc. Vị Thánh đệ tử muốn có dung sắc cần phải thực hành con đường dẫn đến dung sắc. Do vị ấy thực hành con đường dẫn đến dung sắc, sự thực hành ấy đưa vị ấy nhận lãnh được dung sắc, vị ấy nhận lãnh được dung sắc hoặc Chư Thiên, hoặc loài Người.
Này Gia chủ, vị Thánh đệ tử muốn có an lạc, không có thể do cầu xin an lạc hay tán thán để làm nhân đem đến an lạc. Vị Thánh đệ tử muốn có an lạc cần phải thực hành con đường dẫn đến an lạc. Do vị ấy thực hành con đường dẫn đến an lạc, sự thực hành ấy đưa đến vị ấy nhận lãnh được an lạc, vị ấy nhận lãnh được an lạc hoặc chư Thiên, hoặc loài Người.
Này Gia chủ, vị Thánh đệ tử muốn có tiếng tốt, không có thể do cầu xin tiếng tốt hay tán thán để làm nhân đem đến tiếng tốt. Vị Thánh đệ tử muốn có tiếng tốt cần phải thực hành con đường dẫn đến tiếng tốt. Do vị ấy thực hành con đường dẫn đến tiếng tốt, sự thực hành ấy đưa vị ấy nhận lãnh được tiếng tốt, vị ấy nhận lãnh được tiếng tốt hoặc chư Thiên, hoặc loài Người
Này Gia chủ, vị Thánh đệ tử muốn có được Thiên giới, không có do cầu xin Thiên giới hay tán thán để làm nhân đem đến Thiên giới. Vị thánh đệ tử muốn có Thiên giới cần phải thực hành con đường dẫn đến Thiên giới. Do vị ấy thực hành con đường dẫn đến Thiên giới, sự thực hành ấy đưa vị ấy nhận lãnh được Thiên giới, vị ấy nhận lãnh được Thiên giới.
(Kinh Tăng Chi Bộ II, chương 5, phẩm Vua Munda)
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
SUY NGHIỆM:
Sống trường thọ khỏe mạnh, nhan sắc xinh đẹp, an vui thoải mái, tiếng tốt đồn xa, sau khi hết đời sống này tái sanh hưởng phước cõi trời là mong ước chính yếu của con người. Ai cũng mong ước như vậy, nhiều người thường cầu xin ơn trên ban cho như thế nhưng thực tế thì không phải ai cũng toại nguyện, như ý.
Bởi vậy nên Thế Tôn khẳng định: “Ta tuyên bố không phải do nhân cầu xin, không phải do nhân ước vọng mà có được” năm món yêu thích kể trên.
Cũng như đem hai chiếc bình, một bình đựng đá cuội và một bình đựng dầu đổ xuống hồ nước, dầu nhẹ thì nổi lên và đá nặng thì chìm nghĩm. Dù cho có tập trung cầu nguyện cho đá nổi, dầu chìm vẫn không thể được vì bản chất của nó như vậy. Nên vấn đề không ở nơi cầu xin, ước nguyện mà ở sự thực hành, “khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm”.
Nhân quả rất chính xác và minh bạch. Gieo nhân nào thì gặt quả nấy. Muốn có phước báo thì phải làm phước, tích phước, vun bồi cội phước. Cầu xin và cầu nguyện suông không phải là nội dung thực hành của người Phật tử vì không thể mang lại kết quả như ý, do trái ngược với quy luật nhân quả.
Cho nên, người Phật tử chánh tín có cầu nguyện mà không hề cầu xin, vì cầu xin vốn không có cơ sở và không thể được. Sự cầu nguyện chân chính theo Phật giáo cũng không ngoài việc mong được Tam bảo soi sáng và thức tỉnh để thực hành Chánh pháp mà thôi. Thực hành Chánh pháp, cụ thể là Bát chánh đạo mới là cơ sở vững chắc nhất cho việc thành tựu mọi thiện pháp.
Theo phattuvietnam
Phiền Não Là Bồ Ðề
Ðức Phật thấy chúng sanh chịu đựng bốn nỗi khổ to lớn là sanh, già, bệnh, chết, nên Ngài bèn phát tâm xuất gia tu hành, tìm cách giải quyết vấn đề ấy. Trong sự vô minh của chúng ta, phiền não bất giác xuất hiện -khi thì bộc lộ qua sắc tướng, lúc lại tiềm tàng trong tâm trí, và cũng có khi vô minh dấy khởi nên cái gì cũng không biết cả. Hễ vô minh vừa tác oai tác quái là mình trở nên hồ đồ ngay, cho nên phiền não chính là nhân duyên cản trở việc tu Ðạo, là chướng ngại vật trên đường Ðạo.
Song le, chẳng thể không có phiền não! Vì sao? Bởi "phiền não tức là Bồ-đề." Nếu biết vận dụng thì phiền não chính là Bồ-đề, nếu không biết vận dụng thì Bồ-đề biến thành phiền não! Bồ-đề ví như nước và phiền não ví như băng vậy; nước chính là băng, băng chính là nước. Nước và băng vốn cùng một thể chứ chẳng phải là hai thứ khác biệt nhau. Khi giá lạnh thì nước đông lại thành băng và lúc nóng bức thì băng tan thành nước. Vậy, nói một cách khác thì khi có phiền não tức là "nước đóng thành băng," và lúc không phiền não tức là "băng tan thành nước;" lý này rất dễ hiểu. Lại nữa, có phiền não thì có "băng" phiền não -vô minh, và không có phiền não thì có "nước" Bồ-đề -trí huệ. Về điểm này, các bạn hãy thiết thực nhớ lấy, ghi khắc vào lòng! Chúng ta tu Ðạo, chớ nên tu tới tám vạn đại kiếp mà cái phiền não này vẫn cứ tồn tại. Ngày ngày "ăn" phiền não mà sống, nếu không "ăn" phiền não thì chết đói, bởi như thế thì thật là rất đáng thương!
Bệnh tật của chúng ta là từ đâu mà ra? Chính là từ ba cái độc tham, sân, si! Nếu con người không có ba thứ độc này thì bệnh tật gì cũng không có cả. Giới, Ðịnh, Huệ trong Phật Pháp chính là phương thuốc đặc hiệu để trị căn bệnh "tham, sân, si." Thuốc này hiệu nghiệm như thần, "thuốc đến, bệnh đi," nên nói:
Tâm thanh, thủy hiện nguyệt,
Ý định, thiên vô vân.
(Tâm lắng, nước hiện trăng,
Ý dừng, trời không mây.)
Ðó là thứ cảnh giới không còn phiền não. Có câu:
Tâm chỉ niệm tuyệt: chân phú quý,
Tư dục đoạn tận: chân phước điền.
(Tâm dừng, niệm dứt: giàu sang thực,
Tư dục hết sạch là ruộng phước.)
Tâm vọng tưởng dừng hẳn, ý niệm phan duyên không còn, đó đúng là giàu sang thật sự. Nói tóm lại, không tham tức là giàu sang. Vì sao người ta tham lam? Vì họ không "tri túc," nên cảm thấy thiếu thốn, chưa đầy đủ! Không có tư dục chính là ruộng phước, nếu dứt bỏ được mọi ham muốn ích kỷ thì đúng là ruộng phước thật sự. Các bạn hãy đặc biệt lưu ý:
Tâm bình: bách nạn tán,
Ý định: vạn sự kiết.
(Tâm bình lặng, trăm nạn tiêu tan,
Ý an định, muôn sự được kiết tường.)
Câu danh ngôn trên đây rất chí lý và vô cùng hữu ích, đáng cho mọi người lấy làm khuôn vàng thước ngọc.
"Phiền não" là gì? Là "phiền thân não tâm," không được thanh thản, tự tại.
"Ưu" là gì? Ưu có nghĩa là "ưu sầu khổ não," buồn rầu, không vui.
"Hoạnh" là gì? Hoạnh tức là "phi tai hoạnh họa," có nghĩa là tai bay vạ gởi, bất ngờ xảy ra chuyện không may.
Những sự việc này ràng buộc hoặc bức bách các bạn khiến cho các bạn như bị khóa chặt bởi cái "khóa vô minh," bị trói chằng chịt bởi sợi dây phiền não, hoặc có cảm giác nghẹt thở như bị tảng đá lớn đè lên người vậy. Chính vì muốn cho hết thảy chúng sanh dứt bỏ mọi phiền não để đạt sự an vui và xa lìa mọi bức bách hầu đạt sự giải thoát, nên Ðức Phật mới khuyên tất cả chúng sanh nên phát tâm Bồ-đề rộng lớn và tu học công đức cùng đạo hạnh của Phật. Do đó, tất cả chúng sanh chúng ta nên vâng lời Ðức Phật, tin tưởng Ðức Phật, và càng nên y giáo phụng hành hơn nữa!
Tâm phiền não của chúng sanh thì nhiều đến vô lượng vô biên, nhưng nên biết rằng nó giống như các ảo ảnh trông thấy khi bị ánh mặt trời làm hoa mắt (dương diễm) vậy. Chúng sanh điên điên đảo đảoỦlấy thẳng làm cong, lấy cong làm thẳng; lấy đen làm trắng, lấy trắng làm đen; lấy thiện làm ác, lấy ác làm thiệnỦdù giáo hóa thế nào đi nữa thì cũng vẫn cứ chứng nào tật nấy, chướng ngại chồng chất. Nếu nêu ra khuyết điểm của họ, thì chẳng những họ không vui, không chịu sửa sai, không phục thiện, mà còn tìm cách che đậy, biện hộ cho những lỗi lầm của họ, và thậm chí còn nổi đại vô minh, sanh đại phiền não nữa. Chư Bồ Tát trông thấy những chúng sanh như thế thì khởi lòng từ bi thương xót, tận tình dạy bảo, năm lần bảy lượt căn dặn họ đừng nên nói chuyện thị phi, đừng nên sanh phiền não; và còn cho biết rằng nếu họ không nổi nóng, không đố kỵ, không chướng ngại kẻ khác, thì họ sẽ vượt khỏi bể khổ.
Thân người là giả tạm, đừng xem cái "túi da" hôi hám này như báu vật rồi cứ lo nâng niu, chăm sóc, sợ "nó" cực khổ, vất vả. Các bạn muốn cho "nó" được sung sướng, an nhàn, nhưng "nó" lại luôn luôn gây thêm rắc rối, phiền lụy cho các bạn!
HT Tuyên Hóa giảng
(Giảng ngày 03 tháng 5 năm 1983)
Ý nghĩa và tác dụng của lễ bái
HỎI: Xin cho biết tại sao người ta phải lễ bái, phải lạy Phật? Vì sao hình thức lễ bái là một nghi thức thường thấy trong nghi lễ Phật giáo? Tác dụng của lễ bái là gì?
ĐÁP: Lễ bái là một nghi thức tín ngưỡng thường thấy ở một số tôn giáo phương Đông nói chung và trong đó có Phật giáo. Khởi nguyên, lễ bái biểu thị sự phục tùng, tôn kính tuyệt đối đối với các uy lực siêu nhiên, đấng thần linh mà tôi người đang tôn thờ. Dần dần, tuỳ theo sự phát triển của mỗi tôn giáo mà có những ý nghĩa khác nhau trong cách thức lễ bái.
Quan niệm về lễ bái theo Phật giáo hoàn toàn khác biệt với tất cả những quan niệm kể trên. Theo Phật giáo, vì sùng kính ân đức vô lượng, trí tuệ vô biên của chư Phật mà hàng đệ tử Ngài đã biểu lộ sự thành kính ấy qua hình thức lễ bái. Sự lễ bái hoàn toàn không hề mang tính chất hạ thấp phẩm giá của mình như bao nhiêu người lầm tưởng. Bởi vì, phát xuất từ sự nhận thức về nhân cách siêu việt, cao tột của chư Phật, chư vị Bồ tát mà chúng ta thực hành lễ bái. Vì khi lễ bái, chúng ta biểu lộ sự kính trọng của mình qua thân tướng đồng thời lập chí noi theo công hạnh của các Ngài. Trong nhân quả của sự tôn kính “trọng thầy mới được làm thầy”, việc xưng tán công đức chư Phật, chư vị Bồ tát với tâm chân thành, với lòng kính ngưỡng thiết tha, chắc chắn từng bước ta sẽ đạt đến quả vị như các vị ấy. Lễ bái như vậy không phải là một hành động mê tín và là một sự thực tập mầu nhiệm làm tăng trưởng tính thánh thiện, hoàn thiện một nhân cách vĩ đại trong tự thân.
Theo HT.Thích Thanh Từ trong tác phẩm Bước Đầu Học Phật thì “lạy Phật không vì van xin tha tội, không vì cầu mong ban ân, chỉ vì quý kính công đức trí tuệ của Phật nên chúng ta lạy Ngài. Lạy Phật để thấy mình còn thấp thỏi ti tiện, bỏ hết những thói ngạo mạn cống cao. Quý kính gương cao cả của Phật để mình noi theo. Phước đức lạy Phật là ở chỗ đó”.
Mặt khác, lễ Phật vì dẹp bỏ ngã mạn - Bản chất con người chúng ta lúc nào cũng tự cao tự đắc, vênh váo nghênh ngang, xem cái “tôi” của mình là trung tâm vũ trụ. Đó là tánh xấu khiến mọi người chán ghét, xa lánh, làm tiêu mòn công đức. Phật tử ý thức được điều này, kính lạy Phật, Bồ tát và các bậc tôn túc, để diệt trừ tâm ngã mạn của mình. Kính lạy các Ngài vì tự mình thấy mình không sánh kịp các Ngài, biết mình thấp kém thì tánh ngạo mạn từ từ biến mất.
Khi lạy các Ngài, ta không mong một ân sủng nào, chỉ vì một lòng kính trọng đức hạnh cao cả của các Ngài, tự thấy mình hèn hạ, thấp kém, thế là mọi công đức từ đó phát sinh. Kính ngưỡng và quy hướng về Đấng Giác ngộ là biểu hiện của tự thân đã giác ngộ. Bởi đứa ăn trộm thì phục kẻ ăn trộm giỏi, chàng võ sĩ tập tễnh vào nghề thì nể tay võ sĩ vô địch. Ở đây, việc kính trọng Phật, Bồ tát và các bậc tôn túc thì trong ta luôn có hình ảnh của các vị ấy. Chúng ta muốn dẹp bỏ những tánh xấu, thực hành đức hạnh để tự hoàn thiện mình thì kính lễ những bậc đức hạnh là điều cần thiết vậy.
Lễ Phật vì noi gương - Kính lạy Phật, chính vì chúng ta muốn học tập theo gương của Ngài. Chúng ta phải kính lễ để học tập theo Đức Phật. Bởi vì, Phật là bậc toàn giác, đầy đủ mọi công đức, viên mãn trí tuệ và từ bi.
(Theo Phật pháp bách vấn, tập I)
Huyền Ngu - Quảng Tánh
Thứ Hai, 25 tháng 3, 2013
Lục trần
Cái kiếp con người sanh ra chịu trăm cay ngàn đắng để trả cho rồi nghiệp chướng, bởi người tạo nghiệp nên phải luân hồi đời đời, không biết đâu là giới hạn.
Mà nguyên nhân những cái khổ ở đời, chính là thân ta gây nên cả. Thân ta lại có "lục căn”, sáu căn là: mắt, tai, mũi, lưỡi, xác thịt và y, tức là lòng.
Lục trần là: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Sắc là cái có thể thấy được, Thinh là cái có thể nghe được, Hương là cái có thể ngửi được, Vị là cái có thể nếm được, Xúc là cái mà thân thể biết được như nóng, lạnh, cứng, mềm, v.v... Pháp là cái pháp trần như những cái có thể tưởng tượng được. Sáu trần ấy làm cho ta gây ra thất tình là: Hỉ, Nộ, Ai, Lạc, Ái, Ố, Dục, nghĩa là bảy tình: Mừng, Giận, Buồn, Vui, Thương, Ghét, Muốn, rồi nó khuấy rối tâm ta, không lúc nào buông tha ra.
Người tu hành muốn tìm con đường giải thoát hầu đến cái thế giới "bất diệt,” thì phải trừ lục căn và hành lục độ.
Trừ lục căn tất nhiên không nhiễm lục trần. Ý nói ngăn cấm sáu căn đừng cho thâu thập sáu trần, để tâm được trong sạch. Ví như cái nhà (là xác thân) có sáu cửa (là lục căn), đóng chắc sáu cửa ấy (tức là trừ lục căn), thì làm sao bụi bặm (là lục trần) bay vào, mà làm lấm dơ đồ vật trong nhà đặng; đồ vật ấy tức là "tâm” của ta vậy.
Có câu: "Mục tiền vô sắc, túng giao liễu lục đào hồng, nhĩ bạn vô văn nhất niệm oanh đề yến ngữ.” Nghĩa là: Bao nhiêu màu sắc rực rỡ trước mắt, mà lòng ta không ham chuộng, thì màu sắc ấy không khi nào khoe tốt với ta đặng, khoe quí báu với ta đặng; giọng phù trầm lời tao nhã bên tai mà lòng ta không ái mộ, dẫu cho khẩu tài cách mấy đi nữa cũng không động tâm ta. Đặng như vậy mới gọi là trừ Lục Căn. Tâm ta không bị trần bợn vùi lấp, tự nhiên sáng như gương không bụi, tất nhiên không lờ; người đặng trí huệ, bởi tâm trong sạch.
Ông Xuyên Thuyền Sư có lời tụng rằng: "Như minh cảnh đương đài vạn thượng cư.” Nghĩa là: Đài gương tỏ rạng, hình dạng gì cũng rọi vào cả. Lại có câu: "Thuỷ cảnh trần phong bất đáo, thời ứng hiện vô hà chiếu thiên địa.” Nghĩa là: Nước không có gió tất nhiên không sóng, gương không bụi tất nhiên không lờ, lòng người không phát sanh tam ác "Tham, Sân, Si”, không phân biệt tứ tướng "Nhơn tướng, Ngã tướng, Chúng sanh tướng, Thọ giả tướng.” Không mê mết lục trần "Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp” thì tâm mình trong sạch, tất nhiên lục thông phát hiện, bao nhiêu chuyện quá khứ, vị lai cùng hiện tại, đều rõ đặng, thấy đặng. Ấy là chứng đặng quả A-la-hán.
Lục trần, cũng gọi là lục tặc, lục kiếm, lục thỉ, lục ác tặc, danh gọi tuy nhiều, chớ không ngoài cái phạm vi của sáu trần. Lục tặc là sáu tên ăn cướp chơn tánh người, nên gọi là tặc. Nếu rờ tới thì chết, cũng như mua gươm bén về đâm mình, bằm thây mình, gọi là lục kiếm. Như mũi nhọn bắn yết hầu mình, xuyên tâm mình, nên gọi là lục thỉ.
Sắc: là sắc thân, hình sắc, nói tóm lại những cái hình dạng coi xinh đẹp, quí báu đều gọi là sắc. Mắt thấy cái giả sắc ấy cho rằng tốt đẹp, sanh lòng tham muốn, làm cho tâm ta rối loạn, nên kêu là trần (bụi trần).
Thinh: là tiếng, như giọng nói, lời ca hát, tiếng đờn, tiếng quyển, tiêu tao thanh nhã, làm cho tai nghe tới, tinh thần phải mê mệt, làm cho tâm ta rối loạn. Ta cứ ưa nghe nó hoài, thì cái chơn thân mờ ám, ngày kia ắt sa vào lục đạo.
Hương: là các mùi thơm tho như dầu thơm, phấn thơm, vân vân... Mũi hít vào bắt tinh thần ưa mến, cũng như bướm kia đói hoa khát nhuỵ, mà phải đổ đường tìm hoa, xúi ta mua sắm cho thoả lòng dục vọng, làm vậy nên tinh thần u ám.
Vị: là mùi ngon trong vật ăn uống. Cách cư xử của người đạo đức, ăn no bụng thì đủ, chẳng cần cao lương mỹ vị. Phật nói: "Thực thiểu vô cầu”, nghĩa là ăn ít không tham. Nếu ăn ngon miệng tốn kém nhiều, phải sanh lòng tham ác.
Xúc: là đụng chạm vào xác thân và tinh thần. Xúc vào xác thân như: nóng, lạnh, cứng, mềm. Xúc vào tinh thần như hơi thơm, thúi, vân vân... Vậy thời ăn mặc miễn phương tiện thời đủ, cách giản tiện đó là cao thượng hơn cách xa hoa mỹ lệ.
Pháp: là cái pháp trần, như những cái có thể tưởng tượng được, như tưởng đến việc công danh, phú quí, và các điều lợi mình, hại người cùng những việc trái với đạo lý, đều hại cho tinh thần cả. Có bài thi rằng:
Sắc tướng đừng xem giữ tánh không,
Thinh âm nghe đến khiến xao lòng.
Hương nồng ngào ngạt xin đừng mến,
Vị thấm ngọt ngon dặn chớ trông.
Xúc cảm cao sang sanh dục vọng,
Pháp cầu danh lợi chớ nên mong.
Sáu điều hư thiệt bày rành rẽ,
Giữ đặng ngày sau thoát cõi hồng.
Mà nguyên nhân những cái khổ ở đời, chính là thân ta gây nên cả. Thân ta lại có "lục căn”, sáu căn là: mắt, tai, mũi, lưỡi, xác thịt và y, tức là lòng.
Lục trần là: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Sắc là cái có thể thấy được, Thinh là cái có thể nghe được, Hương là cái có thể ngửi được, Vị là cái có thể nếm được, Xúc là cái mà thân thể biết được như nóng, lạnh, cứng, mềm, v.v... Pháp là cái pháp trần như những cái có thể tưởng tượng được. Sáu trần ấy làm cho ta gây ra thất tình là: Hỉ, Nộ, Ai, Lạc, Ái, Ố, Dục, nghĩa là bảy tình: Mừng, Giận, Buồn, Vui, Thương, Ghét, Muốn, rồi nó khuấy rối tâm ta, không lúc nào buông tha ra.
Người tu hành muốn tìm con đường giải thoát hầu đến cái thế giới "bất diệt,” thì phải trừ lục căn và hành lục độ.
Trừ lục căn tất nhiên không nhiễm lục trần. Ý nói ngăn cấm sáu căn đừng cho thâu thập sáu trần, để tâm được trong sạch. Ví như cái nhà (là xác thân) có sáu cửa (là lục căn), đóng chắc sáu cửa ấy (tức là trừ lục căn), thì làm sao bụi bặm (là lục trần) bay vào, mà làm lấm dơ đồ vật trong nhà đặng; đồ vật ấy tức là "tâm” của ta vậy.
Có câu: "Mục tiền vô sắc, túng giao liễu lục đào hồng, nhĩ bạn vô văn nhất niệm oanh đề yến ngữ.” Nghĩa là: Bao nhiêu màu sắc rực rỡ trước mắt, mà lòng ta không ham chuộng, thì màu sắc ấy không khi nào khoe tốt với ta đặng, khoe quí báu với ta đặng; giọng phù trầm lời tao nhã bên tai mà lòng ta không ái mộ, dẫu cho khẩu tài cách mấy đi nữa cũng không động tâm ta. Đặng như vậy mới gọi là trừ Lục Căn. Tâm ta không bị trần bợn vùi lấp, tự nhiên sáng như gương không bụi, tất nhiên không lờ; người đặng trí huệ, bởi tâm trong sạch.
Ông Xuyên Thuyền Sư có lời tụng rằng: "Như minh cảnh đương đài vạn thượng cư.” Nghĩa là: Đài gương tỏ rạng, hình dạng gì cũng rọi vào cả. Lại có câu: "Thuỷ cảnh trần phong bất đáo, thời ứng hiện vô hà chiếu thiên địa.” Nghĩa là: Nước không có gió tất nhiên không sóng, gương không bụi tất nhiên không lờ, lòng người không phát sanh tam ác "Tham, Sân, Si”, không phân biệt tứ tướng "Nhơn tướng, Ngã tướng, Chúng sanh tướng, Thọ giả tướng.” Không mê mết lục trần "Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp” thì tâm mình trong sạch, tất nhiên lục thông phát hiện, bao nhiêu chuyện quá khứ, vị lai cùng hiện tại, đều rõ đặng, thấy đặng. Ấy là chứng đặng quả A-la-hán.
Lục trần, cũng gọi là lục tặc, lục kiếm, lục thỉ, lục ác tặc, danh gọi tuy nhiều, chớ không ngoài cái phạm vi của sáu trần. Lục tặc là sáu tên ăn cướp chơn tánh người, nên gọi là tặc. Nếu rờ tới thì chết, cũng như mua gươm bén về đâm mình, bằm thây mình, gọi là lục kiếm. Như mũi nhọn bắn yết hầu mình, xuyên tâm mình, nên gọi là lục thỉ.
Sắc: là sắc thân, hình sắc, nói tóm lại những cái hình dạng coi xinh đẹp, quí báu đều gọi là sắc. Mắt thấy cái giả sắc ấy cho rằng tốt đẹp, sanh lòng tham muốn, làm cho tâm ta rối loạn, nên kêu là trần (bụi trần).
Thinh: là tiếng, như giọng nói, lời ca hát, tiếng đờn, tiếng quyển, tiêu tao thanh nhã, làm cho tai nghe tới, tinh thần phải mê mệt, làm cho tâm ta rối loạn. Ta cứ ưa nghe nó hoài, thì cái chơn thân mờ ám, ngày kia ắt sa vào lục đạo.
Hương: là các mùi thơm tho như dầu thơm, phấn thơm, vân vân... Mũi hít vào bắt tinh thần ưa mến, cũng như bướm kia đói hoa khát nhuỵ, mà phải đổ đường tìm hoa, xúi ta mua sắm cho thoả lòng dục vọng, làm vậy nên tinh thần u ám.
Vị: là mùi ngon trong vật ăn uống. Cách cư xử của người đạo đức, ăn no bụng thì đủ, chẳng cần cao lương mỹ vị. Phật nói: "Thực thiểu vô cầu”, nghĩa là ăn ít không tham. Nếu ăn ngon miệng tốn kém nhiều, phải sanh lòng tham ác.
Xúc: là đụng chạm vào xác thân và tinh thần. Xúc vào xác thân như: nóng, lạnh, cứng, mềm. Xúc vào tinh thần như hơi thơm, thúi, vân vân... Vậy thời ăn mặc miễn phương tiện thời đủ, cách giản tiện đó là cao thượng hơn cách xa hoa mỹ lệ.
Pháp: là cái pháp trần, như những cái có thể tưởng tượng được, như tưởng đến việc công danh, phú quí, và các điều lợi mình, hại người cùng những việc trái với đạo lý, đều hại cho tinh thần cả. Có bài thi rằng:
Sắc tướng đừng xem giữ tánh không,
Thinh âm nghe đến khiến xao lòng.
Hương nồng ngào ngạt xin đừng mến,
Vị thấm ngọt ngon dặn chớ trông.
Xúc cảm cao sang sanh dục vọng,
Pháp cầu danh lợi chớ nên mong.
Sáu điều hư thiệt bày rành rẽ,
Giữ đặng ngày sau thoát cõi hồng.
Con Người và Nghiệp Quả
Nghiệp được phát xuất từ thân khẩu ý, vậy nó ảnh hưởng đến cuộc sống hiện tại và tương lai của chúng ta như thế nào?
Tuy thân khẩu ý phát sinh ra nghiệp, nhưng trên thực tế tất cả các nghiệp mà con người tạo ra đều bắt nguồn từ ý tưởng của họ trước nhất. Do đó, miệng chúng ta có nói tốt nói xấu hay thân có làm lành hay dữ thì cũng từ trong ý thức mà ra. Nói chung, tất cả những phân biệt thương ghét, giận hờn, hơn thua, phải quấy đều cấu tạo từ những ý nghĩ của chính mình. Thật vậy, Thân Nghiệp và Khẩu Nghiệp là nguyên nhân tạo nên Quả Báo khổ vui về sau cho chúng ta mà Ý Nghiệp chính là nguyên nhân của Thân Khẩu Nghiệp. Thân Nghiệp và Khẩu Nghiệp có tác dụng trực tiếp với mọi người vì những việc làm hay lời nói tốt xấu, thiện ác đối với kẻ khác sẽ tạo thành những quả báo khổ vui về sau.
Một người làm nghề cướp bóc giết người, gây tai họa đau thương cho người khác thì chính Thân Khẩu Nghiệp nầy sẽ quả báo sự nghèo khổ và chết thảm thiết cho hắn ta về sau và kiếp sau.
Trái lại, một người về Việt Nam làm từ thiện, giúp các em trong viện mồ côi, giúp kẻ tật nguyền nghèo khổ thì sẽ được quả báo giàu sang, phú quý và trường thọ về sau. Nhưng Tâm có nghĩ thì Miệng mới nói và Tay mới làm, vì thế ý nghĩ của đời nầy tạo thành hành vi và lời nói ở đời sau. Thật vậy, Ý nghiệp là nhân của đời trước và thân khẩu nghiệp là quả cho đời sau. Nếu có người mà thông thái bây giờ là tại vì kiếp trước họ thích đọc sách, suy tư. Hoặc có kẻ nói năng phóng đảng và hành động tà dâm vì tiền kiếp họ luôn suy nghĩ về chuyện tà dâm, dối trá. Nói một cách khác là Ý nghiệp đời trước sẽ chuyển thành nhân cách của họ cho đời nay. Chúng ta thấy có nhiều gia đình rất đạo đức, nhưng con cái của họ thì ngỗ nghịch độc ác, không nghe lời dạy dỗ của cha mẹ. Tại sao vậy? Vì lời nói ngỗ nghịch và hành động độc ác của chúng đời nay chính là quả báo của ý nghiệp hay tư tưởng xấu từ đời trước chuyển đến. Do đó cổ nhân có câu:”sanh tử bất sanh tâm” hay là “Cha mẹ sanh con trời sanh tánh” là vậy. Khi thần thức đi tái sinh vào đời sau thì tất cả những chủng tử của nghiệp thức từ đời trước sẽ chuyển đến cho hài nhi để tiếp nhận những quả báo nầy và nhân cách là kết quả của ý nghiệp đã tạo nên. Vì vậy có những kẻ rất đạo đức và thiện tâm ngay từ trong bụng mẹ còn có người đã độc ác từ khi chưa chào đời. Hoặc có những người đời nầy thiện cũng làm mà ác cũng chẳng tha là vì kiếp trước họ thường hay nghĩ tốt xấu. Nói tóm lại tất cả những nhân cách đó đều do tư tưởng, tức là ý nghiệp, từ đời trước tạo thành và chuyển đến.
Trong số bạn bè của chúng ta, tại sao ông kia thích làm việc từ thiện? Hay cô nọ chỉ muốn làm ca sĩ? Bởi vì đời trước ông nầy ham thích suy nghĩ về việc giúp người còn cô kia thì dụng tâm suy nghĩ rất nhiều về sự đam mê của âm nhạc. Hoặc tại sao có người muốn đi tu? Vì đời trước họ thích suy tư về Phật pháp và trong tâm ôm ấp tư tưởng cứu độ chúng sanh.
Vậy nếu muốn có một nhân cách phi thường ở đời sau thì ngay bây giờ chúng ta hãy bồi dưỡng những tư tưởng cao thượng và loại trừ những tư tưởng thấp hèn. Hãy phát huy tâm Bồ-đề để mang niềm vui và tình thương cho mọi người. Loại bỏ tham-sân-si để tâm được yên tịnh vì những cám dỗ, si mê và giận hờn đã làm tâm của chúng ta mê muội để tạo ra Ý nghiệp.
Có người nói rằng nếu ai làm việc thiện, nói lời thiện chỉ vì tâm hồn họ suy nghĩ điều thiện. Nếu điều nầy là đúng, tức là ba nghiệp của thân khẩu ý đều thiện thì chắc chắn đời sau họ phải được giàu sang phú quý và có nhân cách khả kính. Nhưng sự thật chưa chắc như vậy bởi vì chúng ta thấy hằng ngày có người rất giàu có, quyền uy, nhưng lại rất ích kỷ và độc ác, còn có người tuy nghèo khổ, bần hàn nhưng rất từ bi và khả kính. Kết quả như vậy là vì thân khẩu nghiệp làm một đường mà ý nghiệp nghĩ một nẽo. Nói một cách khác là kẻ giàu mà ích kỷ là kiếp trước họ tu phước mà không tu huệ, còn kẻ nghèo mà tốt là họ tu huệ mà không tu phước. Phật dạy muốn hạnh phúc viên mãn thì phước huệ phải song tu.Nói như thế thì mặc dầu hiện tại đang sống trong đời nầy, nhưng chính tự tay chúng ta đã kiến tạo cho mình dần dần một cuộc sống ở đời sau. Cứ mỗi nghiệp mà chúng ta tạo tác chính là một vết mực để vẽ cho bức tranh của đời sau, vì vậy không phải sau khi chúng ta chết thì thần thức mới đi lang thang trong cõi Thân Trung Ấm để tìm kiếm cha mẹ mới của mình mà thật ra tất cả những Nghiệp Quả cộng với nhân duyên đã kiến tạo và hoàn tất cho đời sau của chúng ta trước khi chúng ta mạng chung. Đó là tại sao chúng ta thấy trong câu chuyện Luân Hồi có người chết tại Mỹ mà tái sinh ở Miến Điện, hoặc chết là đàn ông mà tái sanh làm đàn bà.
Vậy tiến trình nầy xảy ra như thế nào?
Trong kinh điển của Phật giáo, khi một người chết thì thân vật lý không còn tồn tại, nhưng thần thức vẫn tiếp tục tồn tại với một sự sống trong thế giới vô hình. Cái ngã nơi Thân Trung Ấm này cũng vẫn là cái Ngã như lúc chúng ta còn sống. Chẳng hạn như trước khi chết chúng ta là ông A thì ở trong Thân Trung Ấm chúng ta vẫn thấy mình là ông A. Cho đến khi duyên đã hết, phải thác sinh về một kiếp khác, Thân Trung Ấm tan biến và sự sống bắt đầu thành hình ở bào thai mới thì lúc đó cái Ngã cũ thật sự chấm dứt hoàn toàn. Cái thời điểm mà Thân Trung Ấm tan biến luôn luôn đồng thời với cái lúc tinh trùng người cha lọt vào noãn bào của mẹ. Giây phút nầy cái Ngã cũ đã hết nên ông A không còn biết mình là ông A nữa, vì thế khi mang một hình hài mới thì tất cả những chuyện về đời trước đã quên hết. Hài nhi từ nay sẽ mang một hình hài mới, tên họ mới, dòng họ mới và dĩ nhiên là một số phận mới.
Cuộc sống hằng ngày chúng ta tạo nghiệp thì tất cả những nghiệp quả sẽ sắp xếp rõ ràng cho cuộc đời của kiếp sau. Chúng ta sẽ sinh vào gia đình nào, làm con cái của ai và cuộc sống sẽ như thế nào đã được an bài trước khi chúng ta nhắm mắt.
Dựa theo lý luận của khoa học ngày nay thì khi có sự giao hợp, người nam phát sinh khoảng 500 triệu tinh trùng. Nếu có những tinh trùng mang nhiễm sắc thể X kết hợp với tiểu noãn sẽ tạo thành một bào thai gái và những tinh trùng mang nhiễm sắc thể Y kết hợp với tiểu noãn sẽ tạo thành bào thai trai. Nhưng do nghiệp của người đó tạo tác khi còn sống sẽ là động lực chính quyết định người đó sẽ mang thân nam hay thân nữ khiến cho tinh trùng loại nào sẽ được lọt vào tiểu noãn. Khi tiểu noãn thụ tinh, các nhiễm sắc thể của tinh trùng và của trứng phối hợp thành 46 cái để bắt đầu tạo thành sự sống. Trong số 46 cái thì một nửa là nhiễm thể của cha và một nửa còn lại là của mẹ. Đây chính là nguồn gốc có sự khác biệt giữa những cá thể trong nhân loại. Hài nhi, lúc bấy giờ mặc dù chỉ là một tế bào tí hon, nhưng nghiệp quả tạo thành một định mệnh vô hình đã bao trùm lấy nó vì những nhiễm thể của người cha và mẹ đã định đoạt giới tính, màu tóc, màu mắt, hình tướng cũng như nhân cách và tính thông minh hay ngu đần của nó sau nầy. Khoa học chứng minh cho chúng ta thấy rằng những nhiễm sắc thể nầy có hình thể giống như vòng xoắn chạy dài và có khả năng chứa hàng ngàn phân tử di truyền, hay gọi là gene, được cấu tạo bởi Acid Desoxyribo Nucleic, gọi tắt là ADN. ADN là một chất hóa học chứa đựng tất cả những dữ kiện về sự sống và sự sinh trưởng của con người. Mỗi phân tử di truyền tự hoạt động riêng rẽ hoặc phối hợp với phân tử di truyền khác để ấn định về màu da, màu sắc của mắt và chiều cao của thân thể…Trong số 23 cái nhiễm thể của cha và 23 cái nhiễm thể của mẹ tạo thành 23 cặp thì luật Nghiệp Quả vô hình sẽ định đoạt cặp nhiễm thể nào ở lại còn cặp nhiễm thể nào sẽ bị loại bỏ. Do đó người mẹ có thể truyền lại cho con mình màu mắt, làn da và một số tính di truyền đã thụ hưởng từ ông bà để lại. Đây là một công trình rất tinh vi và phức tạp vì những nhiễm thể và tiểu noãn có thể được phân chia theo tám triệu kiểu khác nhau. Thật vậy, chính nghiệp của đứa bé đã sắp xếp cuộc tạo dựng thật công phu và quan trọng nầy. Đây là điểm đặc thù của triết lý Phật giáo vì nếu không hiểu rõ chúng ta sẽ vội tin có một Thượng Đế sáng tạo ra con người. Vâng! Chúng ta chính là vị Thượng Đế đó bởi vì nghiệp mà chúng ta đã tạo tác sẽ sắp đặt và kiến tạo cho cuộc đời của chúng ta ở kiếp sau. Tại vì sao? Chính nghiệp của đứa bé đã quy định nó sẽ làm con của gia đình nào để có thể nhận lấy tính di truyền về sức khỏe, trí khôn, hình dáng của dòng họ đó. Rồi cũng chính nghiệp tiếp tục chi phối sự phối hợp cũng như phân chia các phân tử di truyền (gene) để cho nó có những tính chất khác hẳn anh chị em của nó. Nếu đời trước nó tạo rất nhiều phước đức, thường hay giúp đở kẻ khốn cùng, che chở người hoạn nạn thì nghiệp sẽ đưa nó vào sinh trưởng trong một gia đình giàu có để hưởng phước lạc từ khi còn bé. Hoặc là trong đời trước nó thường chăm sóc sức khỏe cho mọi người, đem niềm vui và hạnh phúc cho kẻ khác thì nghiệp sẽ chọn những phân tử di truyền (gene) để tạo thành sức khỏe tốt và trường thọ cho nó ở đời sau. Khi tiểu noãn và tinh trùng kết hợp thì năng lực tâm linh kết tụ và lúc đó tâm thức mới thật sự thành hình và phát triển dựa theo tiến trình phát triển của các tế bào não bộ. Sau hai tháng thì sự phát triển của não bộ gần như hoàn tất với khoảng 15 tỷ tế bào. Với cái não bộ mà chúng ta thường gọi là trinh trắng nầy, thật ra đã chất chứa đầy đủ các mầm mống thiện ác phức tạp kết tụ do đời trước để quy định về những cá tính riêng biệt, nhân cách cũng như tính tình cho đời sau.
Luật Nghiệp Quả sắp xếp mọi tiến trình biến đổi một cách mầu nhiệm mà không bị ngăn cách bởi không gian. Chẳng hạn như vì có duyên mà anh chị em được kết với nhau nhưng vì mỗi người mang mỗi nghiệp riêng biệt của mình từ vô lượng kiếp trước cho nên mặc dù cùng cha mẹ nhưng anh chị em vẫn có sự khác nhau về tính tình, hình dáng và tài năng…Vì không thông suốt luật Nghiệp Quả nầy mà nhiều người nói là cha mẹ sanh con trời sanh tánh là như vậy.
Có người lý luận rằng khi người chết thì tâm thức cũ sẽ được chuyển qua bào thai mới, do đó nếu đời trước người đó thông minh thì đời sau chắc chắn sẽ tiếp tục thông minh tài giỏi, còn kẻ ngu dốt thì đời sau sẽ ngu dốt mãi mãi. Thật ra thì không có tâm thức nào rời thân cũ để nhập qua bào thai mới cả mà chỉ có Nghiệp Quả mới quy định mọi tiến trình nầy mà thôi. Như đã nói tư tưởng tức là Ý Nghiệp từ đời trước sẽ là nhân mà Thân Khẩu Nghiệp nhận lãnh đời nầy chính là quả báo của nó. Nếu đời nầy chúng ta có được nhân cách tốt chỉ vì đời trước chúng ta luôn tâm niệm lành. Một bác học đời trước mà lúc nào cũng có lòng đố kỵ, sợ người khác giỏi hơn mình thì kiếp sau có thể sẽ thành người ngu dốt.
Sự hoạt động của Luật Nghiệp Báo Nhân Quả thì thật quá phức tạp, nó phức tạp hơn hàng vạn triệu lần những máy vi tính mà chúng ta thấy hiện nay. Vâng, chính nghiệp lực là động lực vô hình đã kết hợp tất cả những nghiệp báo với nhân duyên để tạo tác và hình thành cuộc đời của chúng ta ở kiếp sau. Phật dạy hễ tạo nghiệp là phải thọ lãnh quả báo. Vậy nếu muốn đời sau gặt hái nhiều tốt đẹp thì ngay bây giờ hãy cố gắng tạo thật nhiều nhân lành và loại bỏ những tư tưởng xấu xa trong tâm tưởng của chúng ta.
Nhiều người quan niệm rằng nếu ta mắng chửi hay đánh đập kẻ khác thì mới tạo nghiệp còn mình suy nghĩ tốt xấu thì có ai biết gì đâu mà phải sợ. Thông thường con người có tính đố kỵ, hễ ai giỏi ai giàu hơn mình thì ghét, ai thua ai kém hơn mình thì chê bai, khinh bỉ. Tất cả những sự ghen ghét chê bai được phát sinh từ trong tâm tưởng của chúng ta thì chính mình đã tạo ra Ý Nghiệp rồi cho dù chúng ta chưa nói hoặc chưa có hành động gì đối với ai. Có người nói rằng đâu ai biết mình nghĩ gì thì không sợ bị đóng thuế hay bị phạt vạ. Đây là quan niệm sai lầm vì tư tưởng là Ý Nghiệp mà đã là Ý Nghiệp thì phải chịu quả báo đời sau. Vì thế dẫu người không biết mình đã nghĩ gì, nhưng chính mình đã gieo bao nhiêu cái nghiệp để phải chịu luân hồi cho đời sau.
♥‿◄ೋღKhuyết Danhღೋ►‿♥
♥´¯) ¸.☆´¯)
(¸☆´ (¸.♥´´¯`•.¸¸. ☆ ♥ ℒℴνℯ ♥
~•❤•~ Xin Gửi Tình Thương
Tuy thân khẩu ý phát sinh ra nghiệp, nhưng trên thực tế tất cả các nghiệp mà con người tạo ra đều bắt nguồn từ ý tưởng của họ trước nhất. Do đó, miệng chúng ta có nói tốt nói xấu hay thân có làm lành hay dữ thì cũng từ trong ý thức mà ra. Nói chung, tất cả những phân biệt thương ghét, giận hờn, hơn thua, phải quấy đều cấu tạo từ những ý nghĩ của chính mình. Thật vậy, Thân Nghiệp và Khẩu Nghiệp là nguyên nhân tạo nên Quả Báo khổ vui về sau cho chúng ta mà Ý Nghiệp chính là nguyên nhân của Thân Khẩu Nghiệp. Thân Nghiệp và Khẩu Nghiệp có tác dụng trực tiếp với mọi người vì những việc làm hay lời nói tốt xấu, thiện ác đối với kẻ khác sẽ tạo thành những quả báo khổ vui về sau.
Một người làm nghề cướp bóc giết người, gây tai họa đau thương cho người khác thì chính Thân Khẩu Nghiệp nầy sẽ quả báo sự nghèo khổ và chết thảm thiết cho hắn ta về sau và kiếp sau.
Trái lại, một người về Việt Nam làm từ thiện, giúp các em trong viện mồ côi, giúp kẻ tật nguyền nghèo khổ thì sẽ được quả báo giàu sang, phú quý và trường thọ về sau. Nhưng Tâm có nghĩ thì Miệng mới nói và Tay mới làm, vì thế ý nghĩ của đời nầy tạo thành hành vi và lời nói ở đời sau. Thật vậy, Ý nghiệp là nhân của đời trước và thân khẩu nghiệp là quả cho đời sau. Nếu có người mà thông thái bây giờ là tại vì kiếp trước họ thích đọc sách, suy tư. Hoặc có kẻ nói năng phóng đảng và hành động tà dâm vì tiền kiếp họ luôn suy nghĩ về chuyện tà dâm, dối trá. Nói một cách khác là Ý nghiệp đời trước sẽ chuyển thành nhân cách của họ cho đời nay. Chúng ta thấy có nhiều gia đình rất đạo đức, nhưng con cái của họ thì ngỗ nghịch độc ác, không nghe lời dạy dỗ của cha mẹ. Tại sao vậy? Vì lời nói ngỗ nghịch và hành động độc ác của chúng đời nay chính là quả báo của ý nghiệp hay tư tưởng xấu từ đời trước chuyển đến. Do đó cổ nhân có câu:”sanh tử bất sanh tâm” hay là “Cha mẹ sanh con trời sanh tánh” là vậy. Khi thần thức đi tái sinh vào đời sau thì tất cả những chủng tử của nghiệp thức từ đời trước sẽ chuyển đến cho hài nhi để tiếp nhận những quả báo nầy và nhân cách là kết quả của ý nghiệp đã tạo nên. Vì vậy có những kẻ rất đạo đức và thiện tâm ngay từ trong bụng mẹ còn có người đã độc ác từ khi chưa chào đời. Hoặc có những người đời nầy thiện cũng làm mà ác cũng chẳng tha là vì kiếp trước họ thường hay nghĩ tốt xấu. Nói tóm lại tất cả những nhân cách đó đều do tư tưởng, tức là ý nghiệp, từ đời trước tạo thành và chuyển đến.
Trong số bạn bè của chúng ta, tại sao ông kia thích làm việc từ thiện? Hay cô nọ chỉ muốn làm ca sĩ? Bởi vì đời trước ông nầy ham thích suy nghĩ về việc giúp người còn cô kia thì dụng tâm suy nghĩ rất nhiều về sự đam mê của âm nhạc. Hoặc tại sao có người muốn đi tu? Vì đời trước họ thích suy tư về Phật pháp và trong tâm ôm ấp tư tưởng cứu độ chúng sanh.
Vậy nếu muốn có một nhân cách phi thường ở đời sau thì ngay bây giờ chúng ta hãy bồi dưỡng những tư tưởng cao thượng và loại trừ những tư tưởng thấp hèn. Hãy phát huy tâm Bồ-đề để mang niềm vui và tình thương cho mọi người. Loại bỏ tham-sân-si để tâm được yên tịnh vì những cám dỗ, si mê và giận hờn đã làm tâm của chúng ta mê muội để tạo ra Ý nghiệp.
Có người nói rằng nếu ai làm việc thiện, nói lời thiện chỉ vì tâm hồn họ suy nghĩ điều thiện. Nếu điều nầy là đúng, tức là ba nghiệp của thân khẩu ý đều thiện thì chắc chắn đời sau họ phải được giàu sang phú quý và có nhân cách khả kính. Nhưng sự thật chưa chắc như vậy bởi vì chúng ta thấy hằng ngày có người rất giàu có, quyền uy, nhưng lại rất ích kỷ và độc ác, còn có người tuy nghèo khổ, bần hàn nhưng rất từ bi và khả kính. Kết quả như vậy là vì thân khẩu nghiệp làm một đường mà ý nghiệp nghĩ một nẽo. Nói một cách khác là kẻ giàu mà ích kỷ là kiếp trước họ tu phước mà không tu huệ, còn kẻ nghèo mà tốt là họ tu huệ mà không tu phước. Phật dạy muốn hạnh phúc viên mãn thì phước huệ phải song tu.Nói như thế thì mặc dầu hiện tại đang sống trong đời nầy, nhưng chính tự tay chúng ta đã kiến tạo cho mình dần dần một cuộc sống ở đời sau. Cứ mỗi nghiệp mà chúng ta tạo tác chính là một vết mực để vẽ cho bức tranh của đời sau, vì vậy không phải sau khi chúng ta chết thì thần thức mới đi lang thang trong cõi Thân Trung Ấm để tìm kiếm cha mẹ mới của mình mà thật ra tất cả những Nghiệp Quả cộng với nhân duyên đã kiến tạo và hoàn tất cho đời sau của chúng ta trước khi chúng ta mạng chung. Đó là tại sao chúng ta thấy trong câu chuyện Luân Hồi có người chết tại Mỹ mà tái sinh ở Miến Điện, hoặc chết là đàn ông mà tái sanh làm đàn bà.
Vậy tiến trình nầy xảy ra như thế nào?
Trong kinh điển của Phật giáo, khi một người chết thì thân vật lý không còn tồn tại, nhưng thần thức vẫn tiếp tục tồn tại với một sự sống trong thế giới vô hình. Cái ngã nơi Thân Trung Ấm này cũng vẫn là cái Ngã như lúc chúng ta còn sống. Chẳng hạn như trước khi chết chúng ta là ông A thì ở trong Thân Trung Ấm chúng ta vẫn thấy mình là ông A. Cho đến khi duyên đã hết, phải thác sinh về một kiếp khác, Thân Trung Ấm tan biến và sự sống bắt đầu thành hình ở bào thai mới thì lúc đó cái Ngã cũ thật sự chấm dứt hoàn toàn. Cái thời điểm mà Thân Trung Ấm tan biến luôn luôn đồng thời với cái lúc tinh trùng người cha lọt vào noãn bào của mẹ. Giây phút nầy cái Ngã cũ đã hết nên ông A không còn biết mình là ông A nữa, vì thế khi mang một hình hài mới thì tất cả những chuyện về đời trước đã quên hết. Hài nhi từ nay sẽ mang một hình hài mới, tên họ mới, dòng họ mới và dĩ nhiên là một số phận mới.
Cuộc sống hằng ngày chúng ta tạo nghiệp thì tất cả những nghiệp quả sẽ sắp xếp rõ ràng cho cuộc đời của kiếp sau. Chúng ta sẽ sinh vào gia đình nào, làm con cái của ai và cuộc sống sẽ như thế nào đã được an bài trước khi chúng ta nhắm mắt.
Dựa theo lý luận của khoa học ngày nay thì khi có sự giao hợp, người nam phát sinh khoảng 500 triệu tinh trùng. Nếu có những tinh trùng mang nhiễm sắc thể X kết hợp với tiểu noãn sẽ tạo thành một bào thai gái và những tinh trùng mang nhiễm sắc thể Y kết hợp với tiểu noãn sẽ tạo thành bào thai trai. Nhưng do nghiệp của người đó tạo tác khi còn sống sẽ là động lực chính quyết định người đó sẽ mang thân nam hay thân nữ khiến cho tinh trùng loại nào sẽ được lọt vào tiểu noãn. Khi tiểu noãn thụ tinh, các nhiễm sắc thể của tinh trùng và của trứng phối hợp thành 46 cái để bắt đầu tạo thành sự sống. Trong số 46 cái thì một nửa là nhiễm thể của cha và một nửa còn lại là của mẹ. Đây chính là nguồn gốc có sự khác biệt giữa những cá thể trong nhân loại. Hài nhi, lúc bấy giờ mặc dù chỉ là một tế bào tí hon, nhưng nghiệp quả tạo thành một định mệnh vô hình đã bao trùm lấy nó vì những nhiễm thể của người cha và mẹ đã định đoạt giới tính, màu tóc, màu mắt, hình tướng cũng như nhân cách và tính thông minh hay ngu đần của nó sau nầy. Khoa học chứng minh cho chúng ta thấy rằng những nhiễm sắc thể nầy có hình thể giống như vòng xoắn chạy dài và có khả năng chứa hàng ngàn phân tử di truyền, hay gọi là gene, được cấu tạo bởi Acid Desoxyribo Nucleic, gọi tắt là ADN. ADN là một chất hóa học chứa đựng tất cả những dữ kiện về sự sống và sự sinh trưởng của con người. Mỗi phân tử di truyền tự hoạt động riêng rẽ hoặc phối hợp với phân tử di truyền khác để ấn định về màu da, màu sắc của mắt và chiều cao của thân thể…Trong số 23 cái nhiễm thể của cha và 23 cái nhiễm thể của mẹ tạo thành 23 cặp thì luật Nghiệp Quả vô hình sẽ định đoạt cặp nhiễm thể nào ở lại còn cặp nhiễm thể nào sẽ bị loại bỏ. Do đó người mẹ có thể truyền lại cho con mình màu mắt, làn da và một số tính di truyền đã thụ hưởng từ ông bà để lại. Đây là một công trình rất tinh vi và phức tạp vì những nhiễm thể và tiểu noãn có thể được phân chia theo tám triệu kiểu khác nhau. Thật vậy, chính nghiệp của đứa bé đã sắp xếp cuộc tạo dựng thật công phu và quan trọng nầy. Đây là điểm đặc thù của triết lý Phật giáo vì nếu không hiểu rõ chúng ta sẽ vội tin có một Thượng Đế sáng tạo ra con người. Vâng! Chúng ta chính là vị Thượng Đế đó bởi vì nghiệp mà chúng ta đã tạo tác sẽ sắp đặt và kiến tạo cho cuộc đời của chúng ta ở kiếp sau. Tại vì sao? Chính nghiệp của đứa bé đã quy định nó sẽ làm con của gia đình nào để có thể nhận lấy tính di truyền về sức khỏe, trí khôn, hình dáng của dòng họ đó. Rồi cũng chính nghiệp tiếp tục chi phối sự phối hợp cũng như phân chia các phân tử di truyền (gene) để cho nó có những tính chất khác hẳn anh chị em của nó. Nếu đời trước nó tạo rất nhiều phước đức, thường hay giúp đở kẻ khốn cùng, che chở người hoạn nạn thì nghiệp sẽ đưa nó vào sinh trưởng trong một gia đình giàu có để hưởng phước lạc từ khi còn bé. Hoặc là trong đời trước nó thường chăm sóc sức khỏe cho mọi người, đem niềm vui và hạnh phúc cho kẻ khác thì nghiệp sẽ chọn những phân tử di truyền (gene) để tạo thành sức khỏe tốt và trường thọ cho nó ở đời sau. Khi tiểu noãn và tinh trùng kết hợp thì năng lực tâm linh kết tụ và lúc đó tâm thức mới thật sự thành hình và phát triển dựa theo tiến trình phát triển của các tế bào não bộ. Sau hai tháng thì sự phát triển của não bộ gần như hoàn tất với khoảng 15 tỷ tế bào. Với cái não bộ mà chúng ta thường gọi là trinh trắng nầy, thật ra đã chất chứa đầy đủ các mầm mống thiện ác phức tạp kết tụ do đời trước để quy định về những cá tính riêng biệt, nhân cách cũng như tính tình cho đời sau.
Luật Nghiệp Quả sắp xếp mọi tiến trình biến đổi một cách mầu nhiệm mà không bị ngăn cách bởi không gian. Chẳng hạn như vì có duyên mà anh chị em được kết với nhau nhưng vì mỗi người mang mỗi nghiệp riêng biệt của mình từ vô lượng kiếp trước cho nên mặc dù cùng cha mẹ nhưng anh chị em vẫn có sự khác nhau về tính tình, hình dáng và tài năng…Vì không thông suốt luật Nghiệp Quả nầy mà nhiều người nói là cha mẹ sanh con trời sanh tánh là như vậy.
Có người lý luận rằng khi người chết thì tâm thức cũ sẽ được chuyển qua bào thai mới, do đó nếu đời trước người đó thông minh thì đời sau chắc chắn sẽ tiếp tục thông minh tài giỏi, còn kẻ ngu dốt thì đời sau sẽ ngu dốt mãi mãi. Thật ra thì không có tâm thức nào rời thân cũ để nhập qua bào thai mới cả mà chỉ có Nghiệp Quả mới quy định mọi tiến trình nầy mà thôi. Như đã nói tư tưởng tức là Ý Nghiệp từ đời trước sẽ là nhân mà Thân Khẩu Nghiệp nhận lãnh đời nầy chính là quả báo của nó. Nếu đời nầy chúng ta có được nhân cách tốt chỉ vì đời trước chúng ta luôn tâm niệm lành. Một bác học đời trước mà lúc nào cũng có lòng đố kỵ, sợ người khác giỏi hơn mình thì kiếp sau có thể sẽ thành người ngu dốt.
Sự hoạt động của Luật Nghiệp Báo Nhân Quả thì thật quá phức tạp, nó phức tạp hơn hàng vạn triệu lần những máy vi tính mà chúng ta thấy hiện nay. Vâng, chính nghiệp lực là động lực vô hình đã kết hợp tất cả những nghiệp báo với nhân duyên để tạo tác và hình thành cuộc đời của chúng ta ở kiếp sau. Phật dạy hễ tạo nghiệp là phải thọ lãnh quả báo. Vậy nếu muốn đời sau gặt hái nhiều tốt đẹp thì ngay bây giờ hãy cố gắng tạo thật nhiều nhân lành và loại bỏ những tư tưởng xấu xa trong tâm tưởng của chúng ta.
Nhiều người quan niệm rằng nếu ta mắng chửi hay đánh đập kẻ khác thì mới tạo nghiệp còn mình suy nghĩ tốt xấu thì có ai biết gì đâu mà phải sợ. Thông thường con người có tính đố kỵ, hễ ai giỏi ai giàu hơn mình thì ghét, ai thua ai kém hơn mình thì chê bai, khinh bỉ. Tất cả những sự ghen ghét chê bai được phát sinh từ trong tâm tưởng của chúng ta thì chính mình đã tạo ra Ý Nghiệp rồi cho dù chúng ta chưa nói hoặc chưa có hành động gì đối với ai. Có người nói rằng đâu ai biết mình nghĩ gì thì không sợ bị đóng thuế hay bị phạt vạ. Đây là quan niệm sai lầm vì tư tưởng là Ý Nghiệp mà đã là Ý Nghiệp thì phải chịu quả báo đời sau. Vì thế dẫu người không biết mình đã nghĩ gì, nhưng chính mình đã gieo bao nhiêu cái nghiệp để phải chịu luân hồi cho đời sau.
♥‿◄ೋღKhuyết Danhღೋ►‿♥
♥´¯) ¸.☆´¯)
(¸☆´ (¸.♥´´¯`•.¸¸. ☆ ♥ ℒℴνℯ ♥
~•❤•~ Xin Gửi Tình Thương
Niệm Phật Không Nên Nhìn Thấy Lỗi Người Khác
Phật thuyết minh vì sao chẳng nên thấy lỗi người khác? Có đạo lý đấy! Trong Giới kinh thường nói kẻ phá giới Phật vẫn có biện pháp cứu được, nhưng mất chánh kiến, Phật không còn cách nào cứu nổi. Những người kia tuy phá giới, nhưng không phá chánh kiến. Vì sao? Vì họ tin tưởng Tam Bảo sâu xa, vẫn còn cứu được!
Thí dụ rõ ràng nhất là như chuyện pháp sư Oánh Kha đời Tống được chép trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục là một thí dụ rất hay. Lúc còn sống, sư Oánh Kha phá giới, tạo tác rất nhiều ác nghiệp. Sở dĩ sư được cứu là vì tin tưởng Tam Bảo, vẫn tin tưởng nhân quả, tự nghĩ mình nhất định đọa địa ngục A Tỳ. Nghĩ đến chuyện ấy, sư sợ run, cầu hỏi bạn đồng tu có cách nào cứu giúp hay không? Bạn đồng tu của sư cũng rất hiếm có, tặng sư một cuốn Vãng Sanh Truyện, bảo hãy tự xem. Sư đọc thấy người ta niệm Phật vãng sanh, tâm liền chấn động, thật sự phát nguyện niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Tâm sư chân thành, khẩn thiết, niệm đến ba ngày ba đêm cảm đức A Di Đà Phật hiện thân.
A Di Đà Phật dạy ông: “Ông còn sống được mười năm nữa, hãy gắng tu tập, mười năm sau, lúc ông mạng chung, ta sẽ đến rước ông”. Oánh Kha cũng hiếm có, sư thưa cùng A Di Đà Phật: “Con nghiệp chướng rất nặng, chẳng chống cự nổi những dụ dỗ, mê hoặc, người ta dẫn dụ là con lại phạm tội, phạm tội nữa thì chẳng biết mười năm sau con tạo không biết bao nhiêu là tội nghiệp, con chẳng cần sống thêm mười năm nữa đâu, bây giờ con cứ theo Phật thôi!” Phật cũng từ bi đáp ứng: “Ba ngày sau ta sẽ đến tiếp dẫn ông”. Ba ngày sau sư liền vãng sanh.
Kinh A Di Đà nói niệm một ngày, hai ngày đến bảy ngày là thật đấy, chẳng phải giả đâu. Vì sao chúng ta niệm Phật đã lâu như vậy mà chẳng được vãng sanh? Chúng ta chỉ ưa thích vãng sanh nơi cửa miệng, chứ trong tâm tham luyến thế giới này , bỏ chẳng được! Phật biết rất rõ ràng, minh bạch, biết những lời quý vị nói đều là giả, nói không thật, nên Ngài chẳng đến; quý vị thật sự muốn vãng sanh, Phật sẽ đến. Quý vị chẳng nói lời chân thật, miệng đúng, tâm sai, nên có niệm suốt đời, Phật cũng chẳng nghĩ đến, còn người ta niệm chỉ ba ngày là Phật liền nghĩ đến ngay, là vì nguyên nhân nào? Vì thật sự niệm. Nếu như ở đây chúng ta đả Phật thất đúng như thế, niệm Phật bảy ngày liền vãng sanh thì sẽ chẳng còn ai đến đây nữa đâu! Đúng vậy đó, sau bảy ngày là phải chết rồi, còn ai dám đến đây nữa!
Đoạn kinh này nói về người phá giới, nhưng chẳng phá chánh kiến, [vẫn còn là] chánh tri, chánh kiến, chẳng phải là tà tri, tà kiến. Chánh kiến đó là nhân để giải thoát, họ sẽ được cứu, được vãng sanh, không chỉ vãng sanh mà lắm khi phẩm vị vãng sanh còn rất cao nữa kia! Qua kinh điển, chúng ta thấy vua A Xà Thế, chẳng hạn theo kinh Quán Vô Lượng Thọ, vua từng giết cha, hại mẹ, theo Đề Bà Đạt Đa phá hoại Tăng đoàn, tạo tội ngũ nghịch, thập ác. Đề Bà Đạt Đa đọa địa ngục, còn vua lúc lâm chung mới sám hối, niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, Phật bảo nhà vua là thượng phẩm trung sanh, thật là ngoài sức tưởng tượng của chúng ta!
Bởi thế, chúng ta mới hiểu được rằng: Có hai loại người vãng sanh Tịnh Độ, một là hạng bình thời niệm Phật tích công lũy đức, hai là khi lâm chung sám hối, phẩm vị cao hay thấp phụ thuộc sức sám hối của người đó. Vua A Xà Thế chân tâm sám hối, nên đạt được phẩm vị cao như thế. Bởi thế, chúng ta chẳng được khinh mạn những người tạo ác nghiệp, “chẳng nên thấy lỗi họ”.
Trích Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo Kinh Giảng Ký
Chủ giảng: Hòa Thượng Thích Tịnh Không
Cư sĩ Truyền Tịnh chỉnh lý
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Phiền não và Hạnh phúc
Khi trạng thái tâm (tâm sở) thiện bị đem ra khỏi tâm, phiền não tuôn vào quấy phá. Phiền não trong tâm là nguyên nhân hình thành ý tưởng bất thiện, loại phiền não tư tưởng, như ý muốn chiếm đoạt, hay ý muốn hãm hại, và cuối cùng trở thành loại phiền não tác động, biểu hiện ra bên ngoài thành hành động và lời nói bất thiện.
Trong lúc hành thiền, các chướng ngại tâm như ái dục, sân hận, dã dượi buồn ngủ v.v...cũng xâm nhập vào tâm xua đuổi các tâm thiện lành ra khỏi tâm. Giống như khi cướp xâm nhập vào nhà, nắm quyền làm chủ căn nhà. Khi ái dục chiếm tâm, kāmacchanda nīvaraṇa, xua đuổi tâm sở thiện ra khỏi tâm.
Tâm bị quấy phá không chỉ một loại phiền não, mà trong giây phút đó, còn bị ảnh hưởng bởi những loại phiền não khác như phiền não ngủ ngầm, anusaya kilesa, phiền não tư tưởng, hay phiền não tác động. Tất cả đau khổ đều gây ra bởi phiền não. Con người bị đau khổ bởi tham sân si, hay ngã mạn, bủn xỉn v.v… Nó làm cho cá nhân đau khổ và người xung quanh cũng đau khổ theo. Do đó ngay khi phiền não chiếm ngự tâm, chúng hành hạ, thiêu đốt tâm, làm cho người này đau khổ. Đây là hiệu quả của phiền não.
Đối với lửa thường còn cho thấy lửa và khói, nhưng lửa phiền não tham sân si không phát ra ngoài, nên khó thấy và khó dập tắt hơn lửa thương. Phiền não ngủ ngầm, anusaya kilesa, là loại phiền não tiềm ẩn trong tâm luôn luôn chờ đủ cơ hội để phát tác. Loại phiền não này chỉ có thể xóa sạch bằng minh sát đạo và thánh đạo. Khi có điều kiện, phiền não ngủ ngầm sẽ chỗi dậy và biến thành phiền não tác động, biểu hiện thành hành động và lời nói. Phiền não ngủ ngầm rất khó thấy, khó như khi thấy một người đang ngủ, chúng ta không biết người này sẽ chỗi dậy lúc nào. Hoặc so sánh với khả năng gây hỏa hoạn tiềm ẩn trong diêm quẹt. Khi không chánh niệm hay chánh niệm yếu, phiền não tư tưởng sẽ sinh khởi lúc tiếp xúc với vật hấp dẫn, đáng ưa thích làm phát sinh dính mắc, đưa đến dục vọng. Tâm bây giờ chỉ có sự ham muốn, không còn chứa điều gì thiện lành. Ngược lại, khi tiếp xúc vật không ưa thích, sẽ phát sinh sân hận. Khi đến mức độ thái quá, từ dạng phiền não tư tưởng sẽ trở thành phiền não tác động, biến thành hành động và lời nói bất thiện.
Khởi đầu bằng phiền não ngủ ngầm, biến thành phiền não tư tưởng, tiếp theo là chuyển thành phiền não tác động, rồi cuối cùng thành hành động và lời nói. Cũng giống như hỏa hoạn bắt đầu từ tiềm năng tạo ra lửa từ diêm quẹt, khi được quẹt, sẽ bùng cháy gây nên hỏa hoạn. Do đó nếu không muốn tâm bị ô nhiễm, điều cần thiết và phải tận diệt phiền não ngủ ngầm, nhằm vô hiệu hóa tiềm năng gây nên ô nhiễm. Muốn vậy phải luôn luôn giữ chánh niệm. Dù tư tưởng bất thiện có kịp phát sinh, khả năng chánh niệm sẽ tận diệt ngay lập tức tư tưởng bất thiện này. Nếu không có chánh niệm sẽ không thể chế ngự được phiền não, không phát triển được sự định tâm, đo đó không phát triển được trí tuệ. Vì không có trí tuệ, nên không hiểu được bản chất thực sự của đối tượng đang quán sát, và do đó dính mắc vào dáng vẻ tổng quát sinh khởi nơi tâm, nimitta-gaha, rồi trở thành hình ảnh chi tiết, anubyñjanaggaha.
Khi người cùng phái ở chung với nhau sẽ không có gì xảy ra. Nhưng khi có người khác phái sống chung, sẽ phát sinh những sự ưa thích nơi hình dáng, dính mắc nơi sắc diện, hình ảnh dàn bà, đàn ông. Nếu không chánh niệm, sẽ làm phiền não phát sinh. Bắt đầu bằng sự phân biệt nam nữ, trở thành ý tưởng ưa thích, trở nên hình ảnh ưa thích, cuối cùng sinh khởi ái dục. Ngược lại nếu không thích, sẽ phát sinh sân hận, ghen ghét. Từ lúc thấy hình dáng tổng quát, tiếp tục nhìn mãi, sẽ thấy đối tượng mang nhiều chi tiết hơn, từ vóc dáng sang mắt mũi, tóc tai, v.v...và trở nên dính mắc vào các hình ảnh chi tiết trong tâm, phát sinh ái dục. Ý nghĩ về các chi tiết càng nhiều làm cho phiền não sinh khởi trong tâm càng 1úc càng nhiều hơn. Nếu không có chánh niệm, tiếp tục suy nghĩ trong một giây, một giờ, tâm sẽ liên tục chứa đầy các ý tưởng ái dục hình thành từ các đối tượng sinh khởi qua lục căn. Sự thỏa thích hưởng thụ cảm giác mang lại từ sự ưa thích này gọi là dục lạc, một loại hạnh phúc pha trộn, vyāseka sukha. Khi nghe bản nhạc du dương, tâm sinh khởi ưa thích và phát sinh sự ham muốn được nghe thêm nữa. Sự ham muốn diễn ra liên tục trong khi hưởng thụ là loại hạnh phúc ái dục, thuộc loại hạnh phúc tạp nhạp. Tự nơi đối tượng không mang ưa ghét, nhưng vì dính mắc nên phát sinh ý tưởng ham muốn. Hạnh phúc dục lạc hình thành bằng đường lối này. Giống như bản chất tự nhiên của thịt là lạt lẽo, nhưng trở nên thơm ngon khi được ướp gia vị. Hạnh phúc dục lạc hình thành bởi lòng ham muốn được bỏ thêm vào đối tượng. Do vậy, dục lạc, hay hạnh phúc ngũ dục thuộc loại hạnh phúc tạp nhạp, missaka sukha. Cho đù đối tượng có đáng ưa thích, nhưng nếu không phát sinh ham muốn, hạnh phúc ngũ dục sẽ không hình thành. Ham muốn, hay tham ái là phiền não.
Vì chứa đựng phiền não nên hạnh phúc ngũ dục còn được gọi là hạnh phúc bất tịnh, aparisuddha sukha. Hạnh phúc phi dục lạc là loại hạnh phúc đối nghịch với hạnh phúc dục lạc. Bản chất của loại hạnh phúc này là trong sạch thanh tịnh. Đây là loại hạnh phúc mà các bạn đang theo đuổi. Nền tảng của loại hạnh phúc này là giới hạnh, chánh niệm và thu thúc lục căn. Giữ giới hạnh tròn đầy. Duy trì chánh niệm nơi tất cả các đối tượng sinh khởi nơi lục căn. Bảo vệ tâm thường xuyên bằng chánh niệm. Thu thúc lục căn luôn luôn. Kết quả của sự giữ giới, giữ chánh niệm, và thu thúc lục căn làm cho tâm được an định, adhicitta. Hạnh phúc tạo nên do sự định tâm được gọi là hạnh phúc an định. Khi chánh niệm được giữ liên tục, chế ngự được các phiền não, đẩy xa các chướng ngại, hình thành sát na định, tâm được an tịnh từ thời điểm này sang thời điểm khác. Hỉ, lạc phát sinh mạnh mẽ. Một loại hạnh phúc tuyệt diệu sinh khởi từ các tâm sở thiện lành. Đây là loại hạnh phúc phi dục lạc, loại hạnh phúc trong sạch thanh cao, avyāseka sukha. Tóm lại , khi phiền não có mặt nơi tâm, tâm bất an giao động. Khi có dính mắc vào sự vật ưa thích, phát sinh tham ái, hình thành loại hạnh phúc pha trộn, tạp nhạp, không thanh cao vì chứa đựng phiền não. Hạnh phúc dục lạc hình thành từ tham ái. Hạnh phúc phi dục lạc là loại hạnh phúc khi tâm vắng bóng phiền não, không mang tham ái. Đây là loại hạnh phúc thanh cao hiền lành chỉ kinh nghiệm được trong thiền tập.
Thiền Sư U PANDITA - Tỳ kheo Pháp Luân dịch
Thứ Sáu, 22 tháng 3, 2013
MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ NHÂN SINH (đời sống của con người)
Trong cuộc sống vội vã và bận rộn này, anh có từng nghĩ rốt cuộc ý nghĩa và giá trị của sinh mạng chúng ta tại thế gian này là gì không? Có phải đến để ăn? Đến để mặc? Hay đến để kiếm tiền, cầu danh lợi, tranh đấu hơn thua với người?
Hiện tại có không ít người, trong cuộc sống hằng ngày luôn có tư tưởng tham sống sợ chết, tham danh cầu lợi, tranh đấu hơn thua với người; một ngày như mọi ngày, tư tưởng ấy cứ lặp đi lặp lại không thôi. Thấy cái mọi người muốn mình cũng muốn, cái mọi người không muốn mình cũng không muốn. Cho rằng cái mà ai cũng muốn, nhất định nó là cái tốt, cho nên ùa vào chiếm lấy, song chưa từng suy nghĩ cái đó mình có thật sự cần hay không. Đành rằng cái mọi người đều muốn thì mình muốn, cái mọi người không muốn thì lập tức vứt nó qua một bên, vậy cái mọi người đã bỏ đi, mình còn muốn nó làm gì nữa?
Giống như loài kiến, thường thường chỉ cần có một con kiến phát hiện thấy mùi thức ăn, ngay lập tức các con kiến khác ùn ùn kéo đến vây quanh miếng mồi. Nhưng đây không phải hành vi của loài người. Đã là loài người, cần phải có quan niệm “cái mình muốn thì không nhất định mọi người đều muốn, cái mọi người muốn thì không nhất định mình phải muốn”, đây mới là nhân cách độc lập thật sự. Nhưng, hơn phân nửa nhân loại lại thích rập khuôn theo người khác một cách máy móc, đây là hiện tượng đáng báo động và đau lòng.
Nếu chúng ta sống mà không có mục đích, chắc chắn sẽ cảm thấy nhạt nhẽo vô cùng, cảm thấy sinh mạng chẳng có chút giá trị gì, giống như thây chết di động, thế hà tất phải sống để chịu tội? Người như thế, sự sinh tồn của thân thể không chỉ dư thừa, vả lại còn hao phí rất nhiều vật thực và môi trường sống mà thế giới tự nhiên ban tặng.
Nên biết mạng sống của chúng ta nhất định có nguyên nhân của nó, chắc chắn cũng biểu hiện một số ý nghĩa gì đó. Mục đích của nó là gì? Cuối cùng sẽ đi về đâu? Biến thành cái gì?
Theo quan điểm của Phật giáo, mục đích của nhân sinh, hàng phàm phu đến để thọ báo và trả nợ, còn chư Phật, Bồ-tát đến để hoàn thành tâm nguyện; nếu biết thân người khó được, thấy rõ cái nào tốt cái nào xấu, lấy tốt bỏ xấu, cuộc sống mới có ý nghĩa; tiếp đến nếu có khả năng tích cực phụng sự cống hiến, lợi mình lợi người, đây chính là giá trị của nhân sinh.
“Thọ báo” là điều nhắc nhở chúng ta phải có trách nhiệm về những gì mình gây tạo, mình làm, mình nghĩ, mình nói. Mạng sống của chúng ta, không có thứ gì không phải tự làm tự chịu; nhân đã gây tạo trong đời trước, cộng thêm những việc làm tốt, xấu trong đời này, kết hợp lại tạo thành cuộc sống trong hiện tại như thế này, đây chính là nguyên nhân tồn tại của sinh mạng.
Chỉ cần quán xét thời gian ngắn ngủi của một đời, chúng ta thấy có rất nhiều chuyện tưởng chừng không công bằng, nhưng cũng chẳng biết phải giải thích ra sao. Vẫn thường thấy có một số người, đời này rất siêng năng, cố gắng, nhưng lại không thành tựu việc gì; ngược lại có những người không siêng năng, cố gắng bằng, song hết sức thuận buồm xuôi gió, thuận lợi mọi bề. Mới xem qua có gì đó hết sức bất công; kì thực, muốn rõ chuyện này, cần phải đi ngược thời gian suy xét quá khứ, suy xét từng đời, từng đời, cho đến vô lượng đời của quá khứ. Chúng ta đã gây tạo rất nhiều hành vi khác nhau, có hành vi đã thành thục và thọ báo ngay trong đời; có cái chưa thành thục, mãi đến nay chúng ta mới gánh chịu; cũng có những hành vi mãi đến nhiều đời sau nữa mới thọ báo. Những hành vi chúng ta gây tạo, có thứ tốt, cũng có thứ xấu; hành vi tốt sẽ lãnh thọ phước báo, còn gây tạo nghiệp xấu ác phải chịu quả báo khổ.
Còn về giá trị của nhân sinh, đó là gì? Rất nhiều người cho rằng giá trị của nhân sinh, chính là có nhiều tiền, có địa vị cao, có danh phận, làm cho người khác phải xem trọng. Ví dụ, người được thăng quan tiến chức, y gấm về làng, khiến cho người thương, bà con làng xóm, anh em bạn bè đều nở mặt nở mày, như thế không chỉ biểu hiện giá trị của con người anh, mà nơi anh cư trú nhờ đó được thơm lây. Nhưng, đó có phải là giá trị thực sự của con người anh không?
Giá trị thực sự không phải ở chỗ vinh dự hư huyễn của gia tộc, mà được xem xét qua thực chất cống hiến của anh. Nếu anh là người duồng gió bẻ măng, đầu cơ trục lợi, lợi dụng quyền thế nhằm đạt được danh lợi, địa vị, cho dù hiển hách một thời, cũng không được gọi là giá trị thực sự. Bởi vì giá trị này là sự chân thật của tâm, nếu đời này gây tạo nghiệp xấu ác, tức làm cho sự chân thật của tâm bị tổn hại, nhất định đời sau phải lãnh chịu quả báo tương xứng với hành vi hiện tại.
Do đó, chúng ta có thể nói: Có cống hiến và phụng sự bao nhiêu thì có giá trị bấy nhiêu. Ví dụ nói, con người tôi hiện tại có giá trị gì? Tôi đã dùng một lượng thời gian để thuyết giảng phương pháp giải thoát của Phật-đà, khuyên mọi người tu nhân tích đức, đây là giá trị của tôi. Nếu lượng thời gian đó, thay vì thuyết giảng phương pháp giải thoát của Phật-đà, tôi lại dùng nó để ngủ nghỉ, ăn cơm, hay cãi lộn với người ta, như thế không được xem là giá trị. Giá trị nhân sinh cần phải được xây dựng trên nền móng làm lợi cho tha nhân, việc làm ấy giúp mình rất nhiều trong việc hoàn thành nhân cách, nuôi lớn phước đức, trí tuệ.
Tuy phần lớn chúng ta là những người đến đời này để lãnh thọ quả báo và trả nợ, song cũng có thể học tập theo tinh thần của chư Phật, Bồ-tát, phát thệ nguyện cho cuộc sống của mình. Thệ nguyện này có thể lớn có thể nhỏ, cũng có thể phát một nguyện nhỏ cho bản thân: “Mình nguyện suốt đời này phải làm người tốt”. Hoặc tự nguyện với lòng, cả đời này không làm việc xấu, không lười biếng, không đầu cơ trục lợi, tận tâm tận lực với trách nhiệm của mình. Giả sử đời này mình không làm trọn vẹn những gì đã nguyện cũng không sao, đời sau tiếp tục làm. Cuộc sống như thế, mới có giá trị và ý nghĩa, đồng thời tràn ngập niềm tin và hi vọng.
Tác giả: Pháp sư Thánh Nghiêm
Mạt nhân Đạo Quang dịch
(trích dịch từ cuốn sách Tìm Lại Chính Mình)
Đi trong đại trí và đại bi
Một người Phật tử có chí lớn, người ấy không lập thân trên sở học hay nghề nghiệp, mà lập thân trên hạnh và nguyện của tâm bồ đề. Tâm bồ đề là tâm tuệ giác. Tâm ấy được tạo nên bởi hai chất liệu của đại bi và đại trí. Đại trí là sự hiểu biết chính xác và cùng khắp đối với mọi sự hiện hữu và không hiện hữu, trong mọi không gian và trong mọi thời gian.
Đại bi là sự thương yêu không chiếm hữu và không bị điều động bởi ngã ý, nó có khả năng dìu dắt tất cả mọi sự hiện hữu và không hiện hữu dẫn sinh đời sống an bình bằng chất liệu của đại trí. Bi và trí như vậy là bi và trí của tâm bồ đề. Người Phật tử thực tập bi và trí bằng hạnh nguyện mỗi ngày trong mỗi động tác, để thành tựu phước đức và trí tuệ cho tự thân và mở lớn hạnh nguyện ấy, đến với một người, hai người, nhiều người, mọi người và rộng lớn cho đến cùng hết thảy mọi loài trong mọi không gian và trong mọi thời gian.
Bởi vậy, bi và trí của người Phật tử không còn bị ngăn cách giữa không gian nầy với không gian kia; giữa thời gian nầy với thời gian kia; giữa người nầy với người kia; giữa chủng loại nầy với chủng loại kia. Với trí và bi như vậy, nên trái tim của người Phật tử không phải chỉ có khả năng dung hóa một mặt trời của một thái dương hệ, mà có khả năng dung hóa vô biên mặt trời của vô biên thái dương hệ trong vô biên thế giới. Và trí và
bi của người Phật tử như vậy, nên đời sống và hành hoạt của người Phật tử không phải chỉ cảm nhận sự an bình và tươi mát của một vầng trăng trong một thái dương hệ mà cảm nhận vô lượng sự an bình và tươi mát từ vô biên vầng trăng của vô biên thái dương hệ.
Dung hóa ở trong đại trí và đại bi, và từ trí bi ấy, mà người Phật tử khởi lên đại hạnh và đại nguyện làm lợi ích cho hết thảy muôn loài với vô số hình thức thuận nghịch khác nhau.
Dù là ở trong thuận cảnh, người Phật tử đang được mọi người và ngay cả chư thiên, hết lòng kính ngưỡng, ca ngợi và tung hoa cúng dường đuợc biểu hiện dưới vô số hình thức, nhưng tâm của người Phật tử không hề bị chao động và không hề khởi lên tâm kiêu mạn và thủ đắc. Và, dù đang đi trong nghịch cảnh, và đang bị vô số sự chống đối, hủy nhục, nhưng không phải vì vậy, mà người Phật tử khởi tâm nhàm chán để đánh mất tâm bồ đề và hạnh nguyện lớn rộng của mình.
Mọi hành hoạt của người Phật tử là vì lợi ích cho mọi người và mọi loài mà không phải vì bản thân, nên thành công không phải là niềm tự hào, thì thất bại cũng không phải là nỗi đắng cay. Thành công là vì mọi người và mọi loài có nhiều niệm thiện; thất bại là vì mọi người và mọi loài có nhiều tà ý và ác tâm, chứ không phải từ nơi hạnh nguyện bi và trí của người Phật tử.
Mọi hành hoạt của người Phật tử không phải vì người thiện mà bỏ người ác hay vì người ác mà bỏ người thiện, mà người Phật tử hành hoạt theo đại bi và đại trí, nên đối với người thiện, người Phật tử nguyện thân cận để giúp đỡ cho họ chuyển hóa từ thiện hữu hạn đến thiện vô cùng, và đối với người ác, người Phật tử nguyện thân cận để giúp đỡ cho điều ác của họ ngày càng giảm thiểu, để khiến cho tất cả họ đều hướng về đời sống của đại bi và đại trí.
Nên, thiện hay ác đối với người Phật tử không phải là điều thủ đắc hay không thủ đắc.
Và, vì sống bằng đời sống của đại trí và đại bi, nên người Phật tử không phải không biết làm kinh tế, mà còn có khả năng làm kinh tế một cách tài tình, để có điều kiện giúp đỡ cho những người nghèo khổ không nơi nương tựa vật chất, khiến cho họ không bị rơi vào những sợ hãi lạnh lẽo, đói khát và nhờ vậy, mà người Phật tử thành tựu hạnh nguyện tài thí một cách thực tế ngay trong cuộc sống nầy.
Người Phật tử không phải chỉ nỗ lực học hỏi một pháp môn, mà nỗ lực học hỏi và thông đạt vô lượng pháp môn, để diễn đạt chánh pháp không bị ngăn ngại, giúp cho những người không nơi nương tựa tinh thần hay tâm linh, khiến cho họ trừ diệt được hết thảy tà si mà mến yêu chánh kiến, và nhờ vậy, mà người Phật tử thành tựu hạnh nguyện pháp thí một cách thực tế ngay trong cuộc sống nầy.
Người Phật tử nỗ lực thực tập hết thảy các loại thiền định một cách sâu xa, để có đầy đủ ý chí và nghị lực, giúp cho những người tà ý, loạn tâm, trừ diệt được những tâm chí yếu hèn, sợ hãi trước những khó khăn, trước những biến đổi, thăng trầm, sống chết, và nhờ vậy, mà người Phật tử thành tựu hạnh nguyện vô úy thí, một cách thực tế ngay trong cuộc sống nầy.
Người Phật tử nguyện không làm điều ác, chỉ làm điều lành và nguyện phụng sự hết thảy chúng sanh, để cho mình và người đều thành tựu đời sống đạo đức cao thượng và có sự an lạc ngay trong những hành xử đời thường.
Người Phật tử nguyện nhẫn nhục cả thân, miệng và ý để thành tựu hạnh nguyện giải tỏa oán kết giữa mình và mọi người, giữa mình và mọi loài và để cùng nhau chung sống hòa bình.
Người Phật tử nguyện thực tập tinh cần theo hạnh và nguyện của đại trí và đại bi, khiến cho mọi tâm ý buồn chán và giải đãi không thể phát sinh, nhằm thành tựu sự thăng tiến ngay trong đời sống giác ngộ.
Người Phật tử nguyện thực tập các loại thiền định để thâm nhập tự tánh thanh tịnh của toàn thể pháp giới và chứng nhập pháp thân thanh tịnh.
Người Phật tử nguyện lắng nghe mọi âm thanh, nhìn sâu vào mọi sắc tướng, ngửi sâu các hương thơm, nếm sâu các mùi vị, tiếp xúc và nhận biết sâu các đối tượng, bằng sự quán chiếu sâu xa, để thành tựu tuệ giác siêu việt, ngay trong từng giây phút của sự sống.
Người Phật tử sống bằng đời sống như vậy, nên họ ở đâu và lúc nào, cũng dùng chất liệu của đại bi và đại trí để trang nghiêm báo thân và từ báo thân ấy, họ có vô số ứng hóa thân để hành đạo, đem lại nhiều niềm vui sống cho mọi người và mọi loài, trong từng ứng xử và trong từng bước đi của đại bi và đại trí trong mọi thời đại.
(Thích Thái Hòa)
Thứ Ba, 19 tháng 3, 2013
Sắp xếp tượng thần Phật thế nào để được may mắn?
(HDPT) - Với những người Phật tử thì cách sắp xếp tượng thần Phật luôn được coi trọng. Vậy muốn đem lại vận may và sự an lành cho mình thì cách sắp xếp như nào là phù hợp nhất?
__Đối với tượng Quan Âm
Tối kị đặt tượng Quan Âm cùng các tượng thần khác. Thực tế hiện nay rất nhiều gia đình, cửa hàng hoặc nhà hàng đặt tượng Quan Âm cùng các tượng khác như Quan đế, Thổ địa. Như vậy rất không tốt và không gặp may mắn.
Sở dĩ như vậy, vì nếu trong nhà hàng, cửa hàng ăn uống thờ Quan Âm sẽ không thích hợp bởi Quan Âm vốn thanh tịnh, tinh khiết và ăn chay. Khi dâng đồ cúng Quan Âm thường chỉ cần hoa tươi và hoa quả, không được cúng đồ mặn.
Đối với hướng đặt tượng Quan Âm thì phải tránh tuyệt đối không được quay tượng Quan Âm vào các hướng, đó là: nhà vệ sinh, cửa phòng ngủ, bàn ăn. Bởi những hướng này thường không được thanh tịnh.
__Đối với tượng Phật
Thờ Phật tại gia sẽ bảo hộ sự bình an nhưng cách sắp xếp cũng phải theo những quy tắc nhất định. Đầu tiên là tượng Phật đem về nhà không nên coi là đồ cổ hay vật báu mà cất giữ cẩn thận. Như vậy sẽ ảnh hưởng tới mọi thành viên trong gia đình.
Thứ nữa là chúng ta không nên đặt tượng trong phòng ngủ; không nên mua quá nhiều tượng về nhà; không được đặt tượng tại những nơi không sạch sẽ, ẩm thấp.
Riêng đối với tranh ảnh Phật không nên cuộn tròn lạị, còn tượng cũ bị mờ mắt hoặc tay nên tô vẽ và lau chùi lại sạch sẽ.
-----------------------------------------------------------------------------
__Sắp đặt ban thờ theo quan niệm phong thủy
Ban thờ nên quay ra cửa chính, không nên ngược với hướng nhà có thể gây âm dương tương phản, dễ gây bất trắc, nô bộc phản bội hoặc con cái không hiếu thuận, tài vận và gia vận bị ảnh hưởng.
Ban thờ gia tiên tốt nhất nên đặt ở tầng một, gian chính giữa nhà, quay ra cửa lớn để khi vừa mở cửa vào đã nhìn thấy gia tiên, tiện bề chăm sóc.
Ban thờ phải có chỗ dựa lưng, tức kê sát vách tường để linh khí được hội tụ không bị tản mát.
Ban thờ có thờ chung tượng Thần và bài vị tổ tiên thì tượng Thần đặt ở bên trái, tổ tiên đặt ở bên phải. Nếu đặt ngược lại sẽ gây âm thịnh dương suy không tốt cho phong thủy, trong nhà dễ gặp thị phi kiện tụng, bệnh tật không dứt. Bài vị tổ tiên cũng không được đặt cao hơn của thần phật.
Bát hương thờ thần phật nên cao hơn bát hương thờ tổ tiên. Khi cắm hương thì nén hương nên cao hơn mắt người. Khi đốt hương chỉ nên đốt một que, nếu có điều cần khấn nguyện thì đốt ba que, không nên đốt nhiều hơn dễ khiến tà linh theo vào nhà.
Bát hương nên dùng hình tròn không có chân đế, chất liệu bằng sứ là tốt nhất. Bát hương thông thường không nên quá đầy tro, ngày 15 âm hàng tháng có thể rút bớt chân hương cho sạch sẽ.
Vật phẩm thờ cúng cũng cần chú ý một số điểm sau: thờ Phật và Quan Âm chỉ được dùng đồ chay do nhà Phật không ăn đồ tanh; thờ thần chủ yếu dùng hoa quả và phải là số lẻ 1, 3, 5, nếu cúng tổ tiên thì số lượng là hai chữ số.
Tịnh Giác (tổng hợp)
Cơ quan ngôn luận của Ban Hướng Dẫn Phật Tử Trung Ương
Quý vị vui lòng ghi rõ nguồn huongdanphattu.vn khi phát hành lại nội dung từ trang web này
Thứ Hai, 18 tháng 3, 2013
TA SỐNG Ở THẾ GIAN NÀY LÀ VÌ AI VẬY ?
Chúng ta sống ở thế gian này không nên vì chính mình, vì chính mình thì phạm vi đó quá nhỏ, đó chính là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Ta sống ở thế gian này là vì ai vậy? Vì tất cả chúng sanh. Bạn nói vì gia đình của bạn, vì chủng tộc của bạn, vì thôn xóm của bạn, vì quốc gia của bạn, thì phạm vi đó cũng là quá nhỏ. Một quốc gia của bạn tốt, nhưng quốc gia lân cận không được tốt thì bạn cũng không trải qua được những ngày tháng tốt đẹp. Chúng ta mong muốn quốc gia của ta tốt và cũng mong muốn mỗi một quốc gia khác cũng đều tốt, như vậy thiên hạ mới có thể được thái bình, mọi người mới có thể được hạnh phúc.
Vì vậy tâm lượng phải lớn, tầm nhìn phải xa, Phật dạy chúng ta sanh cái tâm này. Sanh tâm này là từ trên hiện tướng mà nói, tướng có tốt xấu, có thiện ác, ở trong Phật pháp gọi là có mười pháp giới, mười pháp giới là tướng, hướng lên trên có Phật, có Bồ Tát, có Duyên Giác, có Thanh Văn, phía dưới thời có sáu cõi. Tướng của sáu cõi từ đâu mà ra vậy? Do tâm của bạn biến hiện ra. Ai là chủ nhân của sáu cõi mười pháp giới? Là chính ta, không phải ai khác.Việc này trong kinh đại thừa Phật thường nói: “tất cả pháp từ tâm tưởng sanh”.
Do đây mà biết, tâm tưởng của chúng ta quan hệ quá lớn, trên Kinh Hoa Nghiêm Phật nói rằng: “Vũ trụ nhân sanh do tâm hiện ra, do thức biến ra”. Tướng nhất định là có, tướng nhất định không thể tiêu mất.Việc này phải biết tướng không thể bị tiêu diệt, thế nhưng tướng sẽ biến đổi, không thể diệt là thật, nhưng nó sẽ biến đổi, vì sao có thể biến đổi vậy? Bởi vì bạn có vọng niệm nên liền biến đổi, tưởng cái gì liền biến cái đó. Bạn tưởng Phật liền biến thành Phật, tưởng Bồ Tát liền biến thành Bồ Tát. Thế giới này ngày nay biến thành động loạn như vầy là do nguyên nhân gì vậy? Bởi vì nghĩ tưởng của mọi người đều là tham sân si, thì thế giới này liền động loạn thôi, không thể tưởng được. Tất cả pháp từ tâm tưởng sanh, thế cho nên “sanh tâm” là vô cùng quan trọng. Cho nên Phật dạy chúng ta không nên sanh tâm luân hồi, không nên sanh tâm sáu cõi, tốt nhất sanh tâm gì vậy? Sanh tâm thành Phật.
Vì vậy, tất cả chư Phật đều khuyên chúng ta niệm Phật A Di Đà, niệm Phật A Di Đà tốt mà, niệm Phật A Di Đà thì tương lai thành Phật A Di Đà, vậy thành Phật khác không tốt hay sao? Các Phật khác không thể sánh với Phật A Di Đà. Phật thì đều là bình đẳng, Phật Phật đạo đồng, Phật Phật bình đẳng, vậy vì sao Phật A Di Đà lại đặc thù chứ? Chúng ta đọc thấy trong kinh Vô Lượng Thọ, Thích Ca Mâu Ni Phật giới thiệu cho chúng ta, mười phương tất cả chư Phật Như Lai thì Phật A Di Đà là bậc nhất, trên kinh xưng tán Ngài là quang trung cực tôn, vua trong các Phật, cho nên Thích Ca Mâu Ni Phật dạy chúng ta đi làm Phật A Di Đà, không làm Phật khác, làm Phật khác không phải là vua trong các Phật. Nếu Phật không khuyên bạn niệm Phật A Di Đà thì tương lai bạn biết được Phật A Di Đà rồi, nếu như gặp được Thích Ca Mâu Ni Phật, bạn sẽ trách Ngài Thích Ca Mâu Ni Phật vì sao không dạy bạn niệm Phật A Di Đà, Ngài dạy tôi niệm Phật khác, Ngài không đủ thành ý, Ngài có lỗi với tôi.Đích thực là như vậy.
Cho nên Thích Ca Mâu Ni Phật chính mình cũng niệm Phật A Di Đà, không một vị Phật nào không niệm Phật A Di Đà, đây là chúng ta xem thấy ở trong Kinh Vô Lượng Thọ, trong Kinh Di Đà. Kinh A Di Đà sáu phương Phật chính là nói về đoạn này, Phật A Di Đà là cứu cánh trong các Phật, là đại viên mãn ngay trong các Phật. Bạn xem, ý nghĩa biết bao. Tôi biết được pháp thù thắng bậc nhất trong tất cả pháp mà tôi không nói với bạn, tôi lại nói với bạn cái thứ hai, thứ ba, thì tôi sẽ có lỗi với bạn. Tuy là hiện tại bạn không biết, tóm lại sẽ có một ngày bạn hiểu ra, sẽ có một ngày bạn thấy được thì lần gặp đó sẽ rất đau lòng. Ngày hôm nay tôi đem pháp môn đệ nhất nói cho bạn nghe, bạn không tiếp nhận, đến sau này bạn đi qua rất nhiều đoạn đường oan uổng, khi gặp lại tôi bạn cũng sẽ không có lời gì để nói. Đây không phải là lỗi của tôi, là do chính bạn do dự hoài nghi, không thể tiếp nhận, tự đi sai đường.
Hòa Thường Tịnh Không
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)