Thứ Hai, 25 tháng 3, 2013

Lục trần

Cái kiếp con người sanh ra chịu trăm cay ngàn đắng để trả cho rồi nghiệp chướng, bởi người tạo nghiệp nên phải luân hồi đời đời, không biết đâu là giới hạn.

Mà nguyên nhân những cái khổ ở đời, chính là thân ta gây nên cả. Thân ta lại có "lục căn”, sáu căn là: mắt, tai, mũi, lưỡi, xác thịt và y, tức là lòng.

Lục trần là: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Sắc là cái có thể thấy được, Thinh là cái có thể nghe được, Hương là cái có thể ngửi được, Vị là cái có thể nếm được, Xúc là cái mà thân thể biết được như nóng, lạnh, cứng, mềm, v.v... Pháp là cái pháp trần như những cái có thể tưởng tượng được. Sáu trần ấy làm cho ta gây ra thất tình là: Hỉ, Nộ, Ai, Lạc, Ái, Ố, Dục, nghĩa là bảy tình: Mừng, Giận, Buồn, Vui, Thương, Ghét, Muốn, rồi nó khuấy rối tâm ta, không lúc nào buông tha ra.

Người tu hành muốn tìm con đường giải thoát hầu đến cái thế giới "bất diệt,” thì phải trừ lục căn và hành lục độ.

Trừ lục căn tất nhiên không nhiễm lục trần. Ý nói ngăn cấm sáu căn đừng cho thâu thập sáu trần, để tâm được trong sạch. Ví như cái nhà (là xác thân) có sáu cửa (là lục căn), đóng chắc sáu cửa ấy (tức là trừ lục căn), thì làm sao bụi bặm (là lục trần) bay vào, mà làm lấm dơ đồ vật trong nhà đặng; đồ vật ấy tức là "tâm” của ta vậy.

Có câu: "Mục tiền vô sắc, túng giao liễu lục đào hồng, nhĩ bạn vô văn nhất niệm oanh đề yến ngữ.” Nghĩa là: Bao nhiêu màu sắc rực rỡ trước mắt, mà lòng ta không ham chuộng, thì màu sắc ấy không khi nào khoe tốt với ta đặng, khoe quí báu với ta đặng; giọng phù trầm lời tao nhã bên tai mà lòng ta không ái mộ, dẫu cho khẩu tài cách mấy đi nữa cũng không động tâm ta. Đặng như vậy mới gọi là trừ Lục Căn. Tâm ta không bị trần bợn vùi lấp, tự nhiên sáng như gương không bụi, tất nhiên không lờ; người đặng trí huệ, bởi tâm trong sạch.

Ông Xuyên Thuyền Sư có lời tụng rằng: "Như minh cảnh đương đài vạn thượng cư.” Nghĩa là: Đài gương tỏ rạng, hình dạng gì cũng rọi vào cả. Lại có câu: "Thuỷ cảnh trần phong bất đáo, thời ứng hiện vô hà chiếu thiên địa.” Nghĩa là: Nước không có gió tất nhiên không sóng, gương không bụi tất nhiên không lờ, lòng người không phát sanh tam ác "Tham, Sân, Si”, không phân biệt tứ tướng "Nhơn tướng, Ngã tướng, Chúng sanh tướng, Thọ giả tướng.” Không mê mết lục trần "Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp” thì tâm mình trong sạch, tất nhiên lục thông phát hiện, bao nhiêu chuyện quá khứ, vị lai cùng hiện tại, đều rõ đặng, thấy đặng. Ấy là chứng đặng quả A-la-hán.

Lục trần, cũng gọi là lục tặc, lục kiếm, lục thỉ, lục ác tặc, danh gọi tuy nhiều, chớ không ngoài cái phạm vi của sáu trần. Lục tặc là sáu tên ăn cướp chơn tánh người, nên gọi là tặc. Nếu rờ tới thì chết, cũng như mua gươm bén về đâm mình, bằm thây mình, gọi là lục kiếm. Như mũi nhọn bắn yết hầu mình, xuyên tâm mình, nên gọi là lục thỉ.

Sắc: là sắc thân, hình sắc, nói tóm lại những cái hình dạng coi xinh đẹp, quí báu đều gọi là sắc. Mắt thấy cái giả sắc ấy cho rằng tốt đẹp, sanh lòng tham muốn, làm cho tâm ta rối loạn, nên kêu là trần (bụi trần).

Thinh: là tiếng, như giọng nói, lời ca hát, tiếng đờn, tiếng quyển, tiêu tao thanh nhã, làm cho tai nghe tới, tinh thần phải mê mệt, làm cho tâm ta rối loạn. Ta cứ ưa nghe nó hoài, thì cái chơn thân mờ ám, ngày kia ắt sa vào lục đạo.

Hương: là các mùi thơm tho như dầu thơm, phấn thơm, vân vân... Mũi hít vào bắt tinh thần ưa mến, cũng như bướm kia đói hoa khát nhuỵ, mà phải đổ đường tìm hoa, xúi ta mua sắm cho thoả lòng dục vọng, làm vậy nên tinh thần u ám.

Vị: là mùi ngon trong vật ăn uống. Cách cư xử của người đạo đức, ăn no bụng thì đủ, chẳng cần cao lương mỹ vị. Phật nói: "Thực thiểu vô cầu”, nghĩa là ăn ít không tham. Nếu ăn ngon miệng tốn kém nhiều, phải sanh lòng tham ác.

Xúc: là đụng chạm vào xác thân và tinh thần. Xúc vào xác thân như: nóng, lạnh, cứng, mềm. Xúc vào tinh thần như hơi thơm, thúi, vân vân... Vậy thời ăn mặc miễn phương tiện thời đủ, cách giản tiện đó là cao thượng hơn cách xa hoa mỹ lệ.

Pháp: là cái pháp trần, như những cái có thể tưởng tượng được, như tưởng đến việc công danh, phú quí, và các điều lợi mình, hại người cùng những việc trái với đạo lý, đều hại cho tinh thần cả. Có bài thi rằng:

Sắc tướng đừng xem giữ tánh không,

Thinh âm nghe đến khiến xao lòng.

Hương nồng ngào ngạt xin đừng mến,

Vị thấm ngọt ngon dặn chớ trông.

Xúc cảm cao sang sanh dục vọng,

Pháp cầu danh lợi chớ nên mong.

Sáu điều hư thiệt bày rành rẽ,

Giữ đặng ngày sau thoát cõi hồng.

Con Người và Nghiệp Quả

Nghiệp được phát xuất từ thân khẩu ý, vậy nó ảnh hưởng đến cuộc sống hiện tại và tương lai của chúng ta như thế nào?

Tuy thân khẩu ý phát sinh ra nghiệp, nhưng trên thực tế tất cả các nghiệp mà con người tạo ra đều bắt nguồn từ ý tưởng của họ trước nhất. Do đó, miệng chúng ta có nói tốt nói xấu hay thân có làm lành hay dữ thì cũng từ trong ý thức mà ra. Nói chung, tất cả những phân biệt thương ghét, giận hờn, hơn thua, phải quấy đều cấu tạo từ những ý nghĩ của chính mình. Thật vậy, Thân Nghiệp và Khẩu Nghiệp là nguyên nhân tạo nên Quả Báo khổ vui về sau cho chúng ta mà Ý Nghiệp chính là nguyên nhân của Thân Khẩu Nghiệp. Thân Nghiệp và Khẩu Nghiệp có tác dụng trực tiếp với mọi người vì những việc làm hay lời nói tốt xấu, thiện ác đối với kẻ khác sẽ tạo thành những quả báo khổ vui về sau.

Một người làm nghề cướp bóc giết người, gây tai họa đau thương cho người khác thì chính Thân Khẩu Nghiệp nầy sẽ quả báo sự nghèo khổ và chết thảm thiết cho hắn ta về sau và kiếp sau.

Trái lại, một người về Việt Nam làm từ thiện, giúp các em trong viện mồ côi, giúp kẻ tật nguyền nghèo khổ thì sẽ được quả báo giàu sang, phú quý và trường thọ về sau. Nhưng Tâm có nghĩ thì Miệng mới nói và Tay mới làm, vì thế ý nghĩ của đời nầy tạo thành hành vi và lời nói ở đời sau. Thật vậy, Ý nghiệp là nhân của đời trước và thân khẩu nghiệp là quả cho đời sau. Nếu có người mà thông thái bây giờ là tại vì kiếp trước họ thích đọc sách, suy tư. Hoặc có kẻ nói năng phóng đảng và hành động tà dâm vì tiền kiếp họ luôn suy nghĩ về chuyện tà dâm, dối trá. Nói một cách khác là Ý nghiệp đời trước sẽ chuyển thành nhân cách của họ cho đời nay. Chúng ta thấy có nhiều gia đình rất đạo đức, nhưng con cái của họ thì ngỗ nghịch độc ác, không nghe lời dạy dỗ của cha mẹ. Tại sao vậy? Vì lời nói ngỗ nghịch và hành động độc ác của chúng đời nay chính là quả báo của ý nghiệp hay tư tưởng xấu từ đời trước chuyển đến. Do đó cổ nhân có câu:”sanh tử bất sanh tâm” hay là “Cha mẹ sanh con trời sanh tánh” là vậy. Khi thần thức đi tái sinh vào đời sau thì tất cả những chủng tử của nghiệp thức từ đời trước sẽ chuyển đến cho hài nhi để tiếp nhận những quả báo nầy và nhân cách là kết quả của ý nghiệp đã tạo nên. Vì vậy có những kẻ rất đạo đức và thiện tâm ngay từ trong bụng mẹ còn có người đã độc ác từ khi chưa chào đời. Hoặc có những người đời nầy thiện cũng làm mà ác cũng chẳng tha là vì kiếp trước họ thường hay nghĩ tốt xấu. Nói tóm lại tất cả những nhân cách đó đều do tư tưởng, tức là ý nghiệp, từ đời trước tạo thành và chuyển đến.

Trong số bạn bè của chúng ta, tại sao ông kia thích làm việc từ thiện? Hay cô nọ chỉ muốn làm ca sĩ? Bởi vì đời trước ông nầy ham thích suy nghĩ về việc giúp người còn cô kia thì dụng tâm suy nghĩ rất nhiều về sự đam mê của âm nhạc. Hoặc tại sao có người muốn đi tu? Vì đời trước họ thích suy tư về Phật pháp và trong tâm ôm ấp tư tưởng cứu độ chúng sanh.

Vậy nếu muốn có một nhân cách phi thường ở đời sau thì ngay bây giờ chúng ta hãy bồi dưỡng những tư tưởng cao thượng và loại trừ những tư tưởng thấp hèn. Hãy phát huy tâm Bồ-đề để mang niềm vui và tình thương cho mọi người. Loại bỏ tham-sân-si để tâm được yên tịnh vì những cám dỗ, si mê và giận hờn đã làm tâm của chúng ta mê muội để tạo ra Ý nghiệp.

Có người nói rằng nếu ai làm việc thiện, nói lời thiện chỉ vì tâm hồn họ suy nghĩ điều thiện. Nếu điều nầy là đúng, tức là ba nghiệp của thân khẩu ý đều thiện thì chắc chắn đời sau họ phải được giàu sang phú quý và có nhân cách khả kính. Nhưng sự thật chưa chắc như vậy bởi vì chúng ta thấy hằng ngày có người rất giàu có, quyền uy, nhưng lại rất ích kỷ và độc ác, còn có người tuy nghèo khổ, bần hàn nhưng rất từ bi và khả kính. Kết quả như vậy là vì thân khẩu nghiệp làm một đường mà ý nghiệp nghĩ một nẽo. Nói một cách khác là kẻ giàu mà ích kỷ là kiếp trước họ tu phước mà không tu huệ, còn kẻ nghèo mà tốt là họ tu huệ mà không tu phước. Phật dạy muốn hạnh phúc viên mãn thì phước huệ phải song tu.Nói như thế thì mặc dầu hiện tại đang sống trong đời nầy, nhưng chính tự tay chúng ta đã kiến tạo cho mình dần dần một cuộc sống ở đời sau. Cứ mỗi nghiệp mà chúng ta tạo tác chính là một vết mực để vẽ cho bức tranh của đời sau, vì vậy không phải sau khi chúng ta chết thì thần thức mới đi lang thang trong cõi Thân Trung Ấm để tìm kiếm cha mẹ mới của mình mà thật ra tất cả những Nghiệp Quả cộng với nhân duyên đã kiến tạo và hoàn tất cho đời sau của chúng ta trước khi chúng ta mạng chung. Đó là tại sao chúng ta thấy trong câu chuyện Luân Hồi có người chết tại Mỹ mà tái sinh ở Miến Điện, hoặc chết là đàn ông mà tái sanh làm đàn bà.

Vậy tiến trình nầy xảy ra như thế nào?

Trong kinh điển của Phật giáo, khi một người chết thì thân vật lý không còn tồn tại, nhưng thần thức vẫn tiếp tục tồn tại với một sự sống trong thế giới vô hình. Cái ngã nơi Thân Trung Ấm này cũng vẫn là cái Ngã như lúc chúng ta còn sống. Chẳng hạn như trước khi chết chúng ta là ông A thì ở trong Thân Trung Ấm chúng ta vẫn thấy mình là ông A. Cho đến khi duyên đã hết, phải thác sinh về một kiếp khác, Thân Trung Ấm tan biến và sự sống bắt đầu thành hình ở bào thai mới thì lúc đó cái Ngã cũ thật sự chấm dứt hoàn toàn. Cái thời điểm mà Thân Trung Ấm tan biến luôn luôn đồng thời với cái lúc tinh trùng người cha lọt vào noãn bào của mẹ. Giây phút nầy cái Ngã cũ đã hết nên ông A không còn biết mình là ông A nữa, vì thế khi mang một hình hài mới thì tất cả những chuyện về đời trước đã quên hết. Hài nhi từ nay sẽ mang một hình hài mới, tên họ mới, dòng họ mới và dĩ nhiên là một số phận mới.

Cuộc sống hằng ngày chúng ta tạo nghiệp thì tất cả những nghiệp quả sẽ sắp xếp rõ ràng cho cuộc đời của kiếp sau. Chúng ta sẽ sinh vào gia đình nào, làm con cái của ai và cuộc sống sẽ như thế nào đã được an bài trước khi chúng ta nhắm mắt.

Dựa theo lý luận của khoa học ngày nay thì khi có sự giao hợp, người nam phát sinh khoảng 500 triệu tinh trùng. Nếu có những tinh trùng mang nhiễm sắc thể X kết hợp với tiểu noãn sẽ tạo thành một bào thai gái và những tinh trùng mang nhiễm sắc thể Y kết hợp với tiểu noãn sẽ tạo thành bào thai trai. Nhưng do nghiệp của người đó tạo tác khi còn sống sẽ là động lực chính quyết định người đó sẽ mang thân nam hay thân nữ khiến cho tinh trùng loại nào sẽ được lọt vào tiểu noãn. Khi tiểu noãn thụ tinh, các nhiễm sắc thể của tinh trùng và của trứng phối hợp thành 46 cái để bắt đầu tạo thành sự sống. Trong số 46 cái thì một nửa là nhiễm thể của cha và một nửa còn lại là của mẹ. Đây chính là nguồn gốc có sự khác biệt giữa những cá thể trong nhân loại. Hài nhi, lúc bấy giờ mặc dù chỉ là một tế bào tí hon, nhưng nghiệp quả tạo thành một định mệnh vô hình đã bao trùm lấy nó vì những nhiễm thể của người cha và mẹ đã định đoạt giới tính, màu tóc, màu mắt, hình tướng cũng như nhân cách và tính thông minh hay ngu đần của nó sau nầy. Khoa học chứng minh cho chúng ta thấy rằng những nhiễm sắc thể nầy có hình thể giống như vòng xoắn chạy dài và có khả năng chứa hàng ngàn phân tử di truyền, hay gọi là gene, được cấu tạo bởi Acid Desoxyribo Nucleic, gọi tắt là ADN. ADN là một chất hóa học chứa đựng tất cả những dữ kiện về sự sống và sự sinh trưởng của con người. Mỗi phân tử di truyền tự hoạt động riêng rẽ hoặc phối hợp với phân tử di truyền khác để ấn định về màu da, màu sắc của mắt và chiều cao của thân thể…Trong số 23 cái nhiễm thể của cha và 23 cái nhiễm thể của mẹ tạo thành 23 cặp thì luật Nghiệp Quả vô hình sẽ định đoạt cặp nhiễm thể nào ở lại còn cặp nhiễm thể nào sẽ bị loại bỏ. Do đó người mẹ có thể truyền lại cho con mình màu mắt, làn da và một số tính di truyền đã thụ hưởng từ ông bà để lại. Đây là một công trình rất tinh vi và phức tạp vì những nhiễm thể và tiểu noãn có thể được phân chia theo tám triệu kiểu khác nhau. Thật vậy, chính nghiệp của đứa bé đã sắp xếp cuộc tạo dựng thật công phu và quan trọng nầy. Đây là điểm đặc thù của triết lý Phật giáo vì nếu không hiểu rõ chúng ta sẽ vội tin có một Thượng Đế sáng tạo ra con người. Vâng! Chúng ta chính là vị Thượng Đế đó bởi vì nghiệp mà chúng ta đã tạo tác sẽ sắp đặt và kiến tạo cho cuộc đời của chúng ta ở kiếp sau. Tại vì sao? Chính nghiệp của đứa bé đã quy định nó sẽ làm con của gia đình nào để có thể nhận lấy tính di truyền về sức khỏe, trí khôn, hình dáng của dòng họ đó. Rồi cũng chính nghiệp tiếp tục chi phối sự phối hợp cũng như phân chia các phân tử di truyền (gene) để cho nó có những tính chất khác hẳn anh chị em của nó. Nếu đời trước nó tạo rất nhiều phước đức, thường hay giúp đở kẻ khốn cùng, che chở người hoạn nạn thì nghiệp sẽ đưa nó vào sinh trưởng trong một gia đình giàu có để hưởng phước lạc từ khi còn bé. Hoặc là trong đời trước nó thường chăm sóc sức khỏe cho mọi người, đem niềm vui và hạnh phúc cho kẻ khác thì nghiệp sẽ chọn những phân tử di truyền (gene) để tạo thành sức khỏe tốt và trường thọ cho nó ở đời sau. Khi tiểu noãn và tinh trùng kết hợp thì năng lực tâm linh kết tụ và lúc đó tâm thức mới thật sự thành hình và phát triển dựa theo tiến trình phát triển của các tế bào não bộ. Sau hai tháng thì sự phát triển của não bộ gần như hoàn tất với khoảng 15 tỷ tế bào. Với cái não bộ mà chúng ta thường gọi là trinh trắng nầy, thật ra đã chất chứa đầy đủ các mầm mống thiện ác phức tạp kết tụ do đời trước để quy định về những cá tính riêng biệt, nhân cách cũng như tính tình cho đời sau.

Luật Nghiệp Quả sắp xếp mọi tiến trình biến đổi một cách mầu nhiệm mà không bị ngăn cách bởi không gian. Chẳng hạn như vì có duyên mà anh chị em được kết với nhau nhưng vì mỗi người mang mỗi nghiệp riêng biệt của mình từ vô lượng kiếp trước cho nên mặc dù cùng cha mẹ nhưng anh chị em vẫn có sự khác nhau về tính tình, hình dáng và tài năng…Vì không thông suốt luật Nghiệp Quả nầy mà nhiều người nói là cha mẹ sanh con trời sanh tánh là như vậy.

Có người lý luận rằng khi người chết thì tâm thức cũ sẽ được chuyển qua bào thai mới, do đó nếu đời trước người đó thông minh thì đời sau chắc chắn sẽ tiếp tục thông minh tài giỏi, còn kẻ ngu dốt thì đời sau sẽ ngu dốt mãi mãi. Thật ra thì không có tâm thức nào rời thân cũ để nhập qua bào thai mới cả mà chỉ có Nghiệp Quả mới quy định mọi tiến trình nầy mà thôi. Như đã nói tư tưởng tức là Ý Nghiệp từ đời trước sẽ là nhân mà Thân Khẩu Nghiệp nhận lãnh đời nầy chính là quả báo của nó. Nếu đời nầy chúng ta có được nhân cách tốt chỉ vì đời trước chúng ta luôn tâm niệm lành. Một bác học đời trước mà lúc nào cũng có lòng đố kỵ, sợ người khác giỏi hơn mình thì kiếp sau có thể sẽ thành người ngu dốt.

Sự hoạt động của Luật Nghiệp Báo Nhân Quả thì thật quá phức tạp, nó phức tạp hơn hàng vạn triệu lần những máy vi tính mà chúng ta thấy hiện nay. Vâng, chính nghiệp lực là động lực vô hình đã kết hợp tất cả những nghiệp báo với nhân duyên để tạo tác và hình thành cuộc đời của chúng ta ở kiếp sau. Phật dạy hễ tạo nghiệp là phải thọ lãnh quả báo. Vậy nếu muốn đời sau gặt hái nhiều tốt đẹp thì ngay bây giờ hãy cố gắng tạo thật nhiều nhân lành và loại bỏ những tư tưởng xấu xa trong tâm tưởng của chúng ta.

Nhiều người quan niệm rằng nếu ta mắng chửi hay đánh đập kẻ khác thì mới tạo nghiệp còn mình suy nghĩ tốt xấu thì có ai biết gì đâu mà phải sợ. Thông thường con người có tính đố kỵ, hễ ai giỏi ai giàu hơn mình thì ghét, ai thua ai kém hơn mình thì chê bai, khinh bỉ. Tất cả những sự ghen ghét chê bai được phát sinh từ trong tâm tưởng của chúng ta thì chính mình đã tạo ra Ý Nghiệp rồi cho dù chúng ta chưa nói hoặc chưa có hành động gì đối với ai. Có người nói rằng đâu ai biết mình nghĩ gì thì không sợ bị đóng thuế hay bị phạt vạ. Đây là quan niệm sai lầm vì tư tưởng là Ý Nghiệp mà đã là Ý Nghiệp thì phải chịu quả báo đời sau. Vì thế dẫu người không biết mình đã nghĩ gì, nhưng chính mình đã gieo bao nhiêu cái nghiệp để phải chịu luân hồi cho đời sau.

♥‿◄ೋღKhuyết Danhღೋ►‿♥

♥´¯) ¸.☆´¯)
(¸☆´ (¸.♥´´¯`•.¸¸. ☆ ♥ ℒℴνℯ ♥

~•❤•~ Xin Gửi Tình Thương

Niệm Phật Không Nên Nhìn Thấy Lỗi Người Khác



Phật thuyết minh vì sao chẳng nên thấy lỗi người khác? Có đạo lý đấy! Trong Giới kinh thường nói kẻ phá giới Phật vẫn có biện pháp cứu được, nhưng mất chánh kiến, Phật không còn cách nào cứu nổi. Những người kia tuy phá giới, nhưng không phá chánh kiến. Vì sao? Vì họ tin tưởng Tam Bảo sâu xa, vẫn còn cứu được!

Thí dụ rõ ràng nhất là như chuyện pháp sư Oánh Kha đời Tống được chép trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục là một thí dụ rất hay. Lúc còn sống, sư Oánh Kha phá giới, tạo tác rất nhiều ác nghiệp. Sở dĩ sư được cứu là vì tin tưởng Tam Bảo, vẫn tin tưởng nhân quả, tự nghĩ mình nhất định đọa địa ngục A Tỳ. Nghĩ đến chuyện ấy, sư sợ run, cầu hỏi bạn đồng tu có cách nào cứu giúp hay không? Bạn đồng tu của sư cũng rất hiếm có, tặng sư một cuốn Vãng Sanh Truyện, bảo hãy tự xem. Sư đọc thấy người ta niệm Phật vãng sanh, tâm liền chấn động, thật sự phát nguyện niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Tâm sư chân thành, khẩn thiết, niệm đến ba ngày ba đêm cảm đức A Di Đà Phật hiện thân.

A Di Đà Phật dạy ông: “Ông còn sống được mười năm nữa, hãy gắng tu tập, mười năm sau, lúc ông mạng chung, ta sẽ đến rước ông”. Oánh Kha cũng hiếm có, sư thưa cùng A Di Đà Phật: “Con nghiệp chướng rất nặng, chẳng chống cự nổi những dụ dỗ, mê hoặc, người ta dẫn dụ là con lại phạm tội, phạm tội nữa thì chẳng biết mười năm sau con tạo không biết bao nhiêu là tội nghiệp, con chẳng cần sống thêm mười năm nữa đâu, bây giờ con cứ theo Phật thôi!” Phật cũng từ bi đáp ứng: “Ba ngày sau ta sẽ đến tiếp dẫn ông”. Ba ngày sau sư liền vãng sanh.

Kinh A Di Đà nói niệm một ngày, hai ngày đến bảy ngày là thật đấy, chẳng phải giả đâu. Vì sao chúng ta niệm Phật đã lâu như vậy mà chẳng được vãng sanh? Chúng ta chỉ ưa thích vãng sanh nơi cửa miệng, chứ trong tâm tham luyến thế giới này , bỏ chẳng được! Phật biết rất rõ ràng, minh bạch, biết những lời quý vị nói đều là giả, nói không thật, nên Ngài chẳng đến; quý vị thật sự muốn vãng sanh, Phật sẽ đến. Quý vị chẳng nói lời chân thật, miệng đúng, tâm sai, nên có niệm suốt đời, Phật cũng chẳng nghĩ đến, còn người ta niệm chỉ ba ngày là Phật liền nghĩ đến ngay, là vì nguyên nhân nào? Vì thật sự niệm. Nếu như ở đây chúng ta đả Phật thất đúng như thế, niệm Phật bảy ngày liền vãng sanh thì sẽ chẳng còn ai đến đây nữa đâu! Đúng vậy đó, sau bảy ngày là phải chết rồi, còn ai dám đến đây nữa!

Đoạn kinh này nói về người phá giới, nhưng chẳng phá chánh kiến, [vẫn còn là] chánh tri, chánh kiến, chẳng phải là tà tri, tà kiến. Chánh kiến đó là nhân để giải thoát, họ sẽ được cứu, được vãng sanh, không chỉ vãng sanh mà lắm khi phẩm vị vãng sanh còn rất cao nữa kia! Qua kinh điển, chúng ta thấy vua A Xà Thế, chẳng hạn theo kinh Quán Vô Lượng Thọ, vua từng giết cha, hại mẹ, theo Đề Bà Đạt Đa phá hoại Tăng đoàn, tạo tội ngũ nghịch, thập ác. Đề Bà Đạt Đa đọa địa ngục, còn vua lúc lâm chung mới sám hối, niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, Phật bảo nhà vua là thượng phẩm trung sanh, thật là ngoài sức tưởng tượng của chúng ta!

Bởi thế, chúng ta mới hiểu được rằng: Có hai loại người vãng sanh Tịnh Độ, một là hạng bình thời niệm Phật tích công lũy đức, hai là khi lâm chung sám hối, phẩm vị cao hay thấp phụ thuộc sức sám hối của người đó. Vua A Xà Thế chân tâm sám hối, nên đạt được phẩm vị cao như thế. Bởi thế, chúng ta chẳng được khinh mạn những người tạo ác nghiệp, “chẳng nên thấy lỗi họ”.

Trích Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo Kinh Giảng Ký
Chủ giảng: Hòa Thượng Thích Tịnh Không
Cư sĩ Truyền Tịnh chỉnh lý
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa

Phiền não và Hạnh phúc



Khi trạng thái tâm (tâm sở) thiện bị đem ra khỏi tâm, phiền não tuôn vào quấy phá. Phiền não trong tâm là nguyên nhân hình thành ý tưởng bất thiện, loại phiền não tư tưởng, như ý muốn chiếm đoạt, hay ý muốn hãm hại, và cuối cùng trở thành loại phiền não tác động, biểu hiện ra bên ngoài thành hành động và lời nói bất thiện.
Trong lúc hành thiền, các chướng ngại tâm như ái dục, sân hận, dã dượi buồn ngủ v.v...cũng xâm nhập vào tâm xua đuổi các tâm thiện lành ra khỏi tâm. Giống như khi cướp xâm nhập vào nhà, nắm quyền làm chủ căn nhà. Khi ái dục chiếm tâm, kāmacchanda nīvaraṇa, xua đuổi tâm sở thiện ra khỏi tâm.

Tâm bị quấy phá không chỉ một loại phiền não, mà trong giây phút đó, còn bị ảnh hưởng bởi những loại phiền não khác như phiền não ngủ ngầm, anusaya kilesa, phiền não tư tưởng, hay phiền não tác động. Tất cả đau khổ đều gây ra bởi phiền não. Con người bị đau khổ bởi tham sân si, hay ngã mạn, bủn xỉn v.v… Nó làm cho cá nhân đau khổ và người xung quanh cũng đau khổ theo. Do đó ngay khi phiền não chiếm ngự tâm, chúng hành hạ, thiêu đốt tâm, làm cho người này đau khổ. Đây là hiệu quả của phiền não.

Đối với lửa thường còn cho thấy lửa và khói, nhưng lửa phiền não tham sân si không phát ra ngoài, nên khó thấy và khó dập tắt hơn lửa thương. Phiền não ngủ ngầm, anusaya kilesa, là loại phiền não tiềm ẩn trong tâm luôn luôn chờ đủ cơ hội để phát tác. Loại phiền não này chỉ có thể xóa sạch bằng minh sát đạo và thánh đạo. Khi có điều kiện, phiền não ngủ ngầm sẽ chỗi dậy và biến thành phiền não tác động, biểu hiện thành hành động và lời nói. Phiền não ngủ ngầm rất khó thấy, khó như khi thấy một người đang ngủ, chúng ta không biết người này sẽ chỗi dậy lúc nào. Hoặc so sánh với khả năng gây hỏa hoạn tiềm ẩn trong diêm quẹt. Khi không chánh niệm hay chánh niệm yếu, phiền não tư tưởng sẽ sinh khởi lúc tiếp xúc với vật hấp dẫn, đáng ưa thích làm phát sinh dính mắc, đưa đến dục vọng. Tâm bây giờ chỉ có sự ham muốn, không còn chứa điều gì thiện lành. Ngược lại, khi tiếp xúc vật không ưa thích, sẽ phát sinh sân hận. Khi đến mức độ thái quá, từ dạng phiền não tư tưởng sẽ trở thành phiền não tác động, biến thành hành động và lời nói bất thiện.

Khởi đầu bằng phiền não ngủ ngầm, biến thành phiền não tư tưởng, tiếp theo là chuyển thành phiền não tác động, rồi cuối cùng thành hành động và lời nói. Cũng giống như hỏa hoạn bắt đầu từ tiềm năng tạo ra lửa từ diêm quẹt, khi được quẹt, sẽ bùng cháy gây nên hỏa hoạn. Do đó nếu không muốn tâm bị ô nhiễm, điều cần thiết và phải tận diệt phiền não ngủ ngầm, nhằm vô hiệu hóa tiềm năng gây nên ô nhiễm. Muốn vậy phải luôn luôn giữ chánh niệm. Dù tư tưởng bất thiện có kịp phát sinh, khả năng chánh niệm sẽ tận diệt ngay lập tức tư tưởng bất thiện này. Nếu không có chánh niệm sẽ không thể chế ngự được phiền não, không phát triển được sự định tâm, đo đó không phát triển được trí tuệ. Vì không có trí tuệ, nên không hiểu được bản chất thực sự của đối tượng đang quán sát, và do đó dính mắc vào dáng vẻ tổng quát sinh khởi nơi tâm, nimitta-gaha, rồi trở thành hình ảnh chi tiết, anubyñjanaggaha.

Khi người cùng phái ở chung với nhau sẽ không có gì xảy ra. Nhưng khi có người khác phái sống chung, sẽ phát sinh những sự ưa thích nơi hình dáng, dính mắc nơi sắc diện, hình ảnh dàn bà, đàn ông. Nếu không chánh niệm, sẽ làm phiền não phát sinh. Bắt đầu bằng sự phân biệt nam nữ, trở thành ý tưởng ưa thích, trở nên hình ảnh ưa thích, cuối cùng sinh khởi ái dục. Ngược lại nếu không thích, sẽ phát sinh sân hận, ghen ghét. Từ lúc thấy hình dáng tổng quát, tiếp tục nhìn mãi, sẽ thấy đối tượng mang nhiều chi tiết hơn, từ vóc dáng sang mắt mũi, tóc tai, v.v...và trở nên dính mắc vào các hình ảnh chi tiết trong tâm, phát sinh ái dục. Ý nghĩ về các chi tiết càng nhiều làm cho phiền não sinh khởi trong tâm càng 1úc càng nhiều hơn. Nếu không có chánh niệm, tiếp tục suy nghĩ trong một giây, một giờ, tâm sẽ liên tục chứa đầy các ý tưởng ái dục hình thành từ các đối tượng sinh khởi qua lục căn. Sự thỏa thích hưởng thụ cảm giác mang lại từ sự ưa thích này gọi là dục lạc, một loại hạnh phúc pha trộn, vyāseka sukha. Khi nghe bản nhạc du dương, tâm sinh khởi ưa thích và phát sinh sự ham muốn được nghe thêm nữa. Sự ham muốn diễn ra liên tục trong khi hưởng thụ là loại hạnh phúc ái dục, thuộc loại hạnh phúc tạp nhạp. Tự nơi đối tượng không mang ưa ghét, nhưng vì dính mắc nên phát sinh ý tưởng ham muốn. Hạnh phúc dục lạc hình thành bằng đường lối này. Giống như bản chất tự nhiên của thịt là lạt lẽo, nhưng trở nên thơm ngon khi được ướp gia vị. Hạnh phúc dục lạc hình thành bởi lòng ham muốn được bỏ thêm vào đối tượng. Do vậy, dục lạc, hay hạnh phúc ngũ dục thuộc loại hạnh phúc tạp nhạp, missaka sukha. Cho đù đối tượng có đáng ưa thích, nhưng nếu không phát sinh ham muốn, hạnh phúc ngũ dục sẽ không hình thành. Ham muốn, hay tham ái là phiền não.

Vì chứa đựng phiền não nên hạnh phúc ngũ dục còn được gọi là hạnh phúc bất tịnh, aparisuddha sukha. Hạnh phúc phi dục lạc là loại hạnh phúc đối nghịch với hạnh phúc dục lạc. Bản chất của loại hạnh phúc này là trong sạch thanh tịnh. Đây là loại hạnh phúc mà các bạn đang theo đuổi. Nền tảng của loại hạnh phúc này là giới hạnh, chánh niệm và thu thúc lục căn. Giữ giới hạnh tròn đầy. Duy trì chánh niệm nơi tất cả các đối tượng sinh khởi nơi lục căn. Bảo vệ tâm thường xuyên bằng chánh niệm. Thu thúc lục căn luôn luôn. Kết quả của sự giữ giới, giữ chánh niệm, và thu thúc lục căn làm cho tâm được an định, adhicitta. Hạnh phúc tạo nên do sự định tâm được gọi là hạnh phúc an định. Khi chánh niệm được giữ liên tục, chế ngự được các phiền não, đẩy xa các chướng ngại, hình thành sát na định, tâm được an tịnh từ thời điểm này sang thời điểm khác. Hỉ, lạc phát sinh mạnh mẽ. Một loại hạnh phúc tuyệt diệu sinh khởi từ các tâm sở thiện lành. Đây là loại hạnh phúc phi dục lạc, loại hạnh phúc trong sạch thanh cao, avyāseka sukha. Tóm lại , khi phiền não có mặt nơi tâm, tâm bất an giao động. Khi có dính mắc vào sự vật ưa thích, phát sinh tham ái, hình thành loại hạnh phúc pha trộn, tạp nhạp, không thanh cao vì chứa đựng phiền não. Hạnh phúc dục lạc hình thành từ tham ái. Hạnh phúc phi dục lạc là loại hạnh phúc khi tâm vắng bóng phiền não, không mang tham ái. Đây là loại hạnh phúc thanh cao hiền lành chỉ kinh nghiệm được trong thiền tập.

Thiền Sư U PANDITA - Tỳ kheo Pháp Luân dịch

Thứ Sáu, 22 tháng 3, 2013

MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ NHÂN SINH (đời sống của con người)



Trong cuộc sống vội vã và bận rộn này, anh có từng nghĩ rốt cuộc ý nghĩa và giá trị của sinh mạng chúng ta tại thế gian này là gì không? Có phải đến để ăn? Đến để mặc? Hay đến để kiếm tiền, cầu danh lợi, tranh đấu hơn thua với người?

Hiện tại có không ít người, trong cuộc sống hằng ngày luôn có tư tưởng tham sống sợ chết, tham danh cầu lợi, tranh đấu hơn thua với người; một ngày như mọi ngày, tư tưởng ấy cứ lặp đi lặp lại không thôi. Thấy cái mọi người muốn mình cũng muốn, cái mọi người không muốn mình cũng không muốn. Cho rằng cái mà ai cũng muốn, nhất định nó là cái tốt, cho nên ùa vào chiếm lấy, song chưa từng suy nghĩ cái đó mình có thật sự cần hay không. Đành rằng cái mọi người đều muốn thì mình muốn, cái mọi người không muốn thì lập tức vứt nó qua một bên, vậy cái mọi người đã bỏ đi, mình còn muốn nó làm gì nữa?

Giống như loài kiến, thường thường chỉ cần có một con kiến phát hiện thấy mùi thức ăn, ngay lập tức các con kiến khác ùn ùn kéo đến vây quanh miếng mồi. Nhưng đây không phải hành vi của loài người. Đã là loài người, cần phải có quan niệm “cái mình muốn thì không nhất định mọi người đều muốn, cái mọi người muốn thì không nhất định mình phải muốn”, đây mới là nhân cách độc lập thật sự. Nhưng, hơn phân nửa nhân loại lại thích rập khuôn theo người khác một cách máy móc, đây là hiện tượng đáng báo động và đau lòng.

Nếu chúng ta sống mà không có mục đích, chắc chắn sẽ cảm thấy nhạt nhẽo vô cùng, cảm thấy sinh mạng chẳng có chút giá trị gì, giống như thây chết di động, thế hà tất phải sống để chịu tội? Người như thế, sự sinh tồn của thân thể không chỉ dư thừa, vả lại còn hao phí rất nhiều vật thực và môi trường sống mà thế giới tự nhiên ban tặng.
Nên biết mạng sống của chúng ta nhất định có nguyên nhân của nó, chắc chắn cũng biểu hiện một số ý nghĩa gì đó. Mục đích của nó là gì? Cuối cùng sẽ đi về đâu? Biến thành cái gì?

Theo quan điểm của Phật giáo, mục đích của nhân sinh, hàng phàm phu đến để thọ báo và trả nợ, còn chư Phật, Bồ-tát đến để hoàn thành tâm nguyện; nếu biết thân người khó được, thấy rõ cái nào tốt cái nào xấu, lấy tốt bỏ xấu, cuộc sống mới có ý nghĩa; tiếp đến nếu có khả năng tích cực phụng sự cống hiến, lợi mình lợi người, đây chính là giá trị của nhân sinh.

“Thọ báo” là điều nhắc nhở chúng ta phải có trách nhiệm về những gì mình gây tạo, mình làm, mình nghĩ, mình nói. Mạng sống của chúng ta, không có thứ gì không phải tự làm tự chịu; nhân đã gây tạo trong đời trước, cộng thêm những việc làm tốt, xấu trong đời này, kết hợp lại tạo thành cuộc sống trong hiện tại như thế này, đây chính là nguyên nhân tồn tại của sinh mạng.

Chỉ cần quán xét thời gian ngắn ngủi của một đời, chúng ta thấy có rất nhiều chuyện tưởng chừng không công bằng, nhưng cũng chẳng biết phải giải thích ra sao. Vẫn thường thấy có một số người, đời này rất siêng năng, cố gắng, nhưng lại không thành tựu việc gì; ngược lại có những người không siêng năng, cố gắng bằng, song hết sức thuận buồm xuôi gió, thuận lợi mọi bề. Mới xem qua có gì đó hết sức bất công; kì thực, muốn rõ chuyện này, cần phải đi ngược thời gian suy xét quá khứ, suy xét từng đời, từng đời, cho đến vô lượng đời của quá khứ. Chúng ta đã gây tạo rất nhiều hành vi khác nhau, có hành vi đã thành thục và thọ báo ngay trong đời; có cái chưa thành thục, mãi đến nay chúng ta mới gánh chịu; cũng có những hành vi mãi đến nhiều đời sau nữa mới thọ báo. Những hành vi chúng ta gây tạo, có thứ tốt, cũng có thứ xấu; hành vi tốt sẽ lãnh thọ phước báo, còn gây tạo nghiệp xấu ác phải chịu quả báo khổ.

Còn về giá trị của nhân sinh, đó là gì? Rất nhiều người cho rằng giá trị của nhân sinh, chính là có nhiều tiền, có địa vị cao, có danh phận, làm cho người khác phải xem trọng. Ví dụ, người được thăng quan tiến chức, y gấm về làng, khiến cho người thương, bà con làng xóm, anh em bạn bè đều nở mặt nở mày, như thế không chỉ biểu hiện giá trị của con người anh, mà nơi anh cư trú nhờ đó được thơm lây. Nhưng, đó có phải là giá trị thực sự của con người anh không?

Giá trị thực sự không phải ở chỗ vinh dự hư huyễn của gia tộc, mà được xem xét qua thực chất cống hiến của anh. Nếu anh là người duồng gió bẻ măng, đầu cơ trục lợi, lợi dụng quyền thế nhằm đạt được danh lợi, địa vị, cho dù hiển hách một thời, cũng không được gọi là giá trị thực sự. Bởi vì giá trị này là sự chân thật của tâm, nếu đời này gây tạo nghiệp xấu ác, tức làm cho sự chân thật của tâm bị tổn hại, nhất định đời sau phải lãnh chịu quả báo tương xứng với hành vi hiện tại.

Do đó, chúng ta có thể nói: Có cống hiến và phụng sự bao nhiêu thì có giá trị bấy nhiêu. Ví dụ nói, con người tôi hiện tại có giá trị gì? Tôi đã dùng một lượng thời gian để thuyết giảng phương pháp giải thoát của Phật-đà, khuyên mọi người tu nhân tích đức, đây là giá trị của tôi. Nếu lượng thời gian đó, thay vì thuyết giảng phương pháp giải thoát của Phật-đà, tôi lại dùng nó để ngủ nghỉ, ăn cơm, hay cãi lộn với người ta, như thế không được xem là giá trị. Giá trị nhân sinh cần phải được xây dựng trên nền móng làm lợi cho tha nhân, việc làm ấy giúp mình rất nhiều trong việc hoàn thành nhân cách, nuôi lớn phước đức, trí tuệ.

Tuy phần lớn chúng ta là những người đến đời này để lãnh thọ quả báo và trả nợ, song cũng có thể học tập theo tinh thần của chư Phật, Bồ-tát, phát thệ nguyện cho cuộc sống của mình. Thệ nguyện này có thể lớn có thể nhỏ, cũng có thể phát một nguyện nhỏ cho bản thân: “Mình nguyện suốt đời này phải làm người tốt”. Hoặc tự nguyện với lòng, cả đời này không làm việc xấu, không lười biếng, không đầu cơ trục lợi, tận tâm tận lực với trách nhiệm của mình. Giả sử đời này mình không làm trọn vẹn những gì đã nguyện cũng không sao, đời sau tiếp tục làm. Cuộc sống như thế, mới có giá trị và ý nghĩa, đồng thời tràn ngập niềm tin và hi vọng.


Tác giả: Pháp sư Thánh Nghiêm
Mạt nhân Đạo Quang dịch
(trích dịch từ cuốn sách Tìm Lại Chính Mình)

Đi trong đại trí và đại bi


Một người Phật tử có chí lớn, người ấy không lập thân trên sở học hay nghề nghiệp, mà lập thân trên hạnh và nguyện của tâm bồ đề. Tâm bồ đề là tâm tuệ giác. Tâm ấy được tạo nên bởi hai chất liệu của đại bi và đại trí. Đại trí là sự hiểu biết chính xác và cùng khắp đối với mọi sự hiện hữu và không hiện hữu, trong mọi không gian và trong mọi thời gian.

Đại bi là sự thương yêu không chiếm hữu và không bị điều động bởi ngã ý, nó có khả năng dìu dắt tất cả mọi sự hiện hữu và không hiện hữu dẫn sinh đời sống an bình bằng chất liệu của đại trí. Bi và trí như vậy là bi và trí của tâm bồ đề. Người Phật tử thực tập bi và trí bằng hạnh nguyện mỗi ngày trong mỗi động tác, để thành tựu phước đức và trí tuệ cho tự thân và mở lớn hạnh nguyện ấy, đến với một người, hai người, nhiều người, mọi người và rộng lớn cho đến cùng hết thảy mọi loài trong mọi không gian và trong mọi thời gian.

Bởi vậy, bi và trí của người Phật tử không còn bị ngăn cách giữa không gian nầy với không gian kia; giữa thời gian nầy với thời gian kia; giữa người nầy với người kia; giữa chủng loại nầy với chủng loại kia. Với trí và bi như vậy, nên trái tim của người Phật tử không phải chỉ có khả năng dung hóa một mặt trời của một thái dương hệ, mà có khả năng dung hóa vô biên mặt trời của vô biên thái dương hệ trong vô biên thế giới. Và trí và
bi của người Phật tử như vậy, nên đời sống và hành hoạt của người Phật tử không phải chỉ cảm nhận sự an bình và tươi mát của một vầng trăng trong một thái dương hệ mà cảm nhận vô lượng sự an bình và tươi mát từ vô biên vầng trăng của vô biên thái dương hệ.

Dung hóa ở trong đại trí và đại bi, và từ trí bi ấy, mà người Phật tử khởi lên đại hạnh và đại nguyện làm lợi ích cho hết thảy muôn loài với vô số hình thức thuận nghịch khác nhau.

Dù là ở trong thuận cảnh, người Phật tử đang được mọi người và ngay cả chư thiên, hết lòng kính ngưỡng, ca ngợi và tung hoa cúng dường đuợc biểu hiện dưới vô số hình thức, nhưng tâm của người Phật tử không hề bị chao động và không hề khởi lên tâm kiêu mạn và thủ đắc. Và, dù đang đi trong nghịch cảnh, và đang bị vô số sự chống đối, hủy nhục, nhưng không phải vì vậy, mà người Phật tử khởi tâm nhàm chán để đánh mất tâm bồ đề và hạnh nguyện lớn rộng của mình.

Mọi hành hoạt của người Phật tử là vì lợi ích cho mọi người và mọi loài mà không phải vì bản thân, nên thành công không phải là niềm tự hào, thì thất bại cũng không phải là nỗi đắng cay. Thành công là vì mọi người và mọi loài có nhiều niệm thiện; thất bại là vì mọi người và mọi loài có nhiều tà ý và ác tâm, chứ không phải từ nơi hạnh nguyện bi và trí của người Phật tử.

Mọi hành hoạt của người Phật tử không phải vì người thiện mà bỏ người ác hay vì người ác mà bỏ người thiện, mà người Phật tử hành hoạt theo đại bi và đại trí, nên đối với người thiện, người Phật tử nguyện thân cận để giúp đỡ cho họ chuyển hóa từ thiện hữu hạn đến thiện vô cùng, và đối với người ác, người Phật tử nguyện thân cận để giúp đỡ cho điều ác của họ ngày càng giảm thiểu, để khiến cho tất cả họ đều hướng về đời sống của đại bi và đại trí.

Nên, thiện hay ác đối với người Phật tử không phải là điều thủ đắc hay không thủ đắc.

Và, vì sống bằng đời sống của đại trí và đại bi, nên người Phật tử không phải không biết làm kinh tế, mà còn có khả năng làm kinh tế một cách tài tình, để có điều kiện giúp đỡ cho những người nghèo khổ không nơi nương tựa vật chất, khiến cho họ không bị rơi vào những sợ hãi lạnh lẽo, đói khát và nhờ vậy, mà người Phật tử thành tựu hạnh nguyện tài thí một cách thực tế ngay trong cuộc sống nầy.

Người Phật tử không phải chỉ nỗ lực học hỏi một pháp môn, mà nỗ lực học hỏi và thông đạt vô lượng pháp môn, để diễn đạt chánh pháp không bị ngăn ngại, giúp cho những người không nơi nương tựa tinh thần hay tâm linh, khiến cho họ trừ diệt được hết thảy tà si mà mến yêu chánh kiến, và nhờ vậy, mà người Phật tử thành tựu hạnh nguyện pháp thí một cách thực tế ngay trong cuộc sống nầy.

Người Phật tử nỗ lực thực tập hết thảy các loại thiền định một cách sâu xa, để có đầy đủ ý chí và nghị lực, giúp cho những người tà ý, loạn tâm, trừ diệt được những tâm chí yếu hèn, sợ hãi trước những khó khăn, trước những biến đổi, thăng trầm, sống chết, và nhờ vậy, mà người Phật tử thành tựu hạnh nguyện vô úy thí, một cách thực tế ngay trong cuộc sống nầy.

Người Phật tử nguyện không làm điều ác, chỉ làm điều lành và nguyện phụng sự hết thảy chúng sanh, để cho mình và người đều thành tựu đời sống đạo đức cao thượng và có sự an lạc ngay trong những hành xử đời thường.

Người Phật tử nguyện nhẫn nhục cả thân, miệng và ý để thành tựu hạnh nguyện giải tỏa oán kết giữa mình và mọi người, giữa mình và mọi loài và để cùng nhau chung sống hòa bình.

Người Phật tử nguyện thực tập tinh cần theo hạnh và nguyện của đại trí và đại bi, khiến cho mọi tâm ý buồn chán và giải đãi không thể phát sinh, nhằm thành tựu sự thăng tiến ngay trong đời sống giác ngộ.

Người Phật tử nguyện thực tập các loại thiền định để thâm nhập tự tánh thanh tịnh của toàn thể pháp giới và chứng nhập pháp thân thanh tịnh.

Người Phật tử nguyện lắng nghe mọi âm thanh, nhìn sâu vào mọi sắc tướng, ngửi sâu các hương thơm, nếm sâu các mùi vị, tiếp xúc và nhận biết sâu các đối tượng, bằng sự quán chiếu sâu xa, để thành tựu tuệ giác siêu việt, ngay trong từng giây phút của sự sống.

Người Phật tử sống bằng đời sống như vậy, nên họ ở đâu và lúc nào, cũng dùng chất liệu của đại bi và đại trí để trang nghiêm báo thân và từ báo thân ấy, họ có vô số ứng hóa thân để hành đạo, đem lại nhiều niềm vui sống cho mọi người và mọi loài, trong từng ứng xử và trong từng bước đi của đại bi và đại trí trong mọi thời đại.

(Thích Thái Hòa)

Thứ Ba, 19 tháng 3, 2013

Sắp xếp tượng thần Phật thế nào để được may mắn?


(HDPT) - Với những người Phật tử thì cách sắp xếp tượng thần Phật luôn được coi trọng. Vậy muốn đem lại vận may và sự an lành cho mình thì cách sắp xếp như nào là phù hợp nhất?


__Đối với tượng Quan Âm

Tối kị đặt tượng Quan Âm cùng các tượng thần khác. Thực tế hiện nay rất nhiều gia đình, cửa hàng hoặc nhà hàng đặt tượng Quan Âm cùng các tượng khác như Quan đế, Thổ địa. Như vậy rất không tốt và không gặp may mắn.

Sở dĩ như vậy, vì nếu trong nhà hàng, cửa hàng ăn uống thờ Quan Âm sẽ không thích hợp bởi Quan Âm vốn thanh tịnh, tinh khiết và ăn chay. Khi dâng đồ cúng Quan Âm thường chỉ cần hoa tươi và hoa quả, không được cúng đồ mặn.

Đối với hướng đặt tượng Quan Âm thì phải tránh tuyệt đối không được quay tượng Quan Âm vào các hướng, đó là: nhà vệ sinh, cửa phòng ngủ, bàn ăn. Bởi những hướng này thường không được thanh tịnh.

__Đối với tượng Phật

Thờ Phật tại gia sẽ bảo hộ sự bình an nhưng cách sắp xếp cũng phải theo những quy tắc nhất định. Đầu tiên là tượng Phật đem về nhà không nên coi là đồ cổ hay vật báu mà cất giữ cẩn thận. Như vậy sẽ ảnh hưởng tới mọi thành viên trong gia đình.

Thứ nữa là chúng ta không nên đặt tượng trong phòng ngủ; không nên mua quá nhiều tượng về nhà; không được đặt tượng tại những nơi không sạch sẽ, ẩm thấp.

Riêng đối với tranh ảnh Phật không nên cuộn tròn lạị, còn tượng cũ bị mờ mắt hoặc tay nên tô vẽ và lau chùi lại sạch sẽ.

-----------------------------------------------------------------------------
__Sắp đặt ban thờ theo quan niệm phong thủy

Ban thờ nên quay ra cửa chính, không nên ngược với hướng nhà có thể gây âm dương tương phản, dễ gây bất trắc, nô bộc phản bội hoặc con cái không hiếu thuận, tài vận và gia vận bị ảnh hưởng.

Ban thờ gia tiên tốt nhất nên đặt ở tầng một, gian chính giữa nhà, quay ra cửa lớn để khi vừa mở cửa vào đã nhìn thấy gia tiên, tiện bề chăm sóc.

Ban thờ phải có chỗ dựa lưng, tức kê sát vách tường để linh khí được hội tụ không bị tản mát.

Ban thờ có thờ chung tượng Thần và bài vị tổ tiên thì tượng Thần đặt ở bên trái, tổ tiên đặt ở bên phải. Nếu đặt ngược lại sẽ gây âm thịnh dương suy không tốt cho phong thủy, trong nhà dễ gặp thị phi kiện tụng, bệnh tật không dứt. Bài vị tổ tiên cũng không được đặt cao hơn của thần phật.

Bát hương thờ thần phật nên cao hơn bát hương thờ tổ tiên. Khi cắm hương thì nén hương nên cao hơn mắt người. Khi đốt hương chỉ nên đốt một que, nếu có điều cần khấn nguyện thì đốt ba que, không nên đốt nhiều hơn dễ khiến tà linh theo vào nhà.

Bát hương nên dùng hình tròn không có chân đế, chất liệu bằng sứ là tốt nhất. Bát hương thông thường không nên quá đầy tro, ngày 15 âm hàng tháng có thể rút bớt chân hương cho sạch sẽ.

Vật phẩm thờ cúng cũng cần chú ý một số điểm sau: thờ Phật và Quan Âm chỉ được dùng đồ chay do nhà Phật không ăn đồ tanh; thờ thần chủ yếu dùng hoa quả và phải là số lẻ 1, 3, 5, nếu cúng tổ tiên thì số lượng là hai chữ số.


Tịnh Giác (tổng hợp)

Cơ quan ngôn luận của Ban Hướng Dẫn Phật Tử Trung Ương
Quý vị vui lòng ghi rõ nguồn huongdanphattu.vn khi phát hành lại nội dung từ trang web này

Thứ Hai, 18 tháng 3, 2013

TA SỐNG Ở THẾ GIAN NÀY LÀ VÌ AI VẬY ?


Chúng ta sống ở thế gian này không nên vì chính mình, vì chính mình thì phạm vi đó quá nhỏ, đó chính là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Ta sống ở thế gian này là vì ai vậy? Vì tất cả chúng sanh. Bạn nói vì gia đình của bạn, vì chủng tộc của bạn, vì thôn xóm của bạn, vì quốc gia của bạn, thì phạm vi đó cũng là quá nhỏ. Một quốc gia của bạn tốt, nhưng quốc gia lân cận không được tốt thì bạn cũng không trải qua được những ngày tháng tốt đẹp. Chúng ta mong muốn quốc gia của ta tốt và cũng mong muốn mỗi một quốc gia khác cũng đều tốt, như vậy thiên hạ mới có thể được thái bình, mọi người mới có thể được hạnh phúc.

Vì vậy tâm lượng phải lớn, tầm nhìn phải xa, Phật dạy chúng ta sanh cái tâm này. Sanh tâm này là từ trên hiện tướng mà nói, tướng có tốt xấu, có thiện ác, ở trong Phật pháp gọi là có mười pháp giới, mười pháp giới là tướng, hướng lên trên có Phật, có Bồ Tát, có Duyên Giác, có Thanh Văn, phía dưới thời có sáu cõi. Tướng của sáu cõi từ đâu mà ra vậy? Do tâm của bạn biến hiện ra. Ai là chủ nhân của sáu cõi mười pháp giới? Là chính ta, không phải ai khác.Việc này trong kinh đại thừa Phật thường nói: “tất cả pháp từ tâm tưởng sanh”.

Do đây mà biết, tâm tưởng của chúng ta quan hệ quá lớn, trên Kinh Hoa Nghiêm Phật nói rằng: “Vũ trụ nhân sanh do tâm hiện ra, do thức biến ra”. Tướng nhất định là có, tướng nhất định không thể tiêu mất.Việc này phải biết tướng không thể bị tiêu diệt, thế nhưng tướng sẽ biến đổi, không thể diệt là thật, nhưng nó sẽ biến đổi, vì sao có thể biến đổi vậy? Bởi vì bạn có vọng niệm nên liền biến đổi, tưởng cái gì liền biến cái đó. Bạn tưởng Phật liền biến thành Phật, tưởng Bồ Tát liền biến thành Bồ Tát. Thế giới này ngày nay biến thành động loạn như vầy là do nguyên nhân gì vậy? Bởi vì nghĩ tưởng của mọi người đều là tham sân si, thì thế giới này liền động loạn thôi, không thể tưởng được. Tất cả pháp từ tâm tưởng sanh, thế cho nên “sanh tâm” là vô cùng quan trọng. Cho nên Phật dạy chúng ta không nên sanh tâm luân hồi, không nên sanh tâm sáu cõi, tốt nhất sanh tâm gì vậy? Sanh tâm thành Phật.

Vì vậy, tất cả chư Phật đều khuyên chúng ta niệm Phật A Di Đà, niệm Phật A Di Đà tốt mà, niệm Phật A Di Đà thì tương lai thành Phật A Di Đà, vậy thành Phật khác không tốt hay sao? Các Phật khác không thể sánh với Phật A Di Đà. Phật thì đều là bình đẳng, Phật Phật đạo đồng, Phật Phật bình đẳng, vậy vì sao Phật A Di Đà lại đặc thù chứ? Chúng ta đọc thấy trong kinh Vô Lượng Thọ, Thích Ca Mâu Ni Phật giới thiệu cho chúng ta, mười phương tất cả chư Phật Như Lai thì Phật A Di Đà là bậc nhất, trên kinh xưng tán Ngài là quang trung cực tôn, vua trong các Phật, cho nên Thích Ca Mâu Ni Phật dạy chúng ta đi làm Phật A Di Đà, không làm Phật khác, làm Phật khác không phải là vua trong các Phật. Nếu Phật không khuyên bạn niệm Phật A Di Đà thì tương lai bạn biết được Phật A Di Đà rồi, nếu như gặp được Thích Ca Mâu Ni Phật, bạn sẽ trách Ngài Thích Ca Mâu Ni Phật vì sao không dạy bạn niệm Phật A Di Đà, Ngài dạy tôi niệm Phật khác, Ngài không đủ thành ý, Ngài có lỗi với tôi.Đích thực là như vậy.

Cho nên Thích Ca Mâu Ni Phật chính mình cũng niệm Phật A Di Đà, không một vị Phật nào không niệm Phật A Di Đà, đây là chúng ta xem thấy ở trong Kinh Vô Lượng Thọ, trong Kinh Di Đà. Kinh A Di Đà sáu phương Phật chính là nói về đoạn này, Phật A Di Đà là cứu cánh trong các Phật, là đại viên mãn ngay trong các Phật. Bạn xem, ý nghĩa biết bao. Tôi biết được pháp thù thắng bậc nhất trong tất cả pháp mà tôi không nói với bạn, tôi lại nói với bạn cái thứ hai, thứ ba, thì tôi sẽ có lỗi với bạn. Tuy là hiện tại bạn không biết, tóm lại sẽ có một ngày bạn hiểu ra, sẽ có một ngày bạn thấy được thì lần gặp đó sẽ rất đau lòng. Ngày hôm nay tôi đem pháp môn đệ nhất nói cho bạn nghe, bạn không tiếp nhận, đến sau này bạn đi qua rất nhiều đoạn đường oan uổng, khi gặp lại tôi bạn cũng sẽ không có lời gì để nói. Đây không phải là lỗi của tôi, là do chính bạn do dự hoài nghi, không thể tiếp nhận, tự đi sai đường.

Hòa Thường Tịnh Không

LÝ DO PHẬT CHẾ NGŨ GIỚI


1) Phật chế giới "không sát sanh" vì lý do gì ?
Phật chế giới "không sát sanh" nhằm tôn trọng sự công bằng, nuôi dưỡng lòng từ bi cũng như tránh được nhân quả báo ứng.

2) Lý do gì Phật chế "không uống rượu" ?
Phật chế "không uống rượu" nhằm bảo vệ hạt giống trí tuệ của bản thân cũng như bảo vệ hạnh phúc gia đình, hơn thế nữa không để lại những hậu quả đáng tiếc do rượu bia và các thứ gây nghiện gây ra.

3) Trộm cướp gồm những hình thức nào ?
- Tiền bạc vật dụng... không phải của mình, không được người khác cho tặng mà lén lấy hoặc giật lấy.
- Dùng mưu mẹo, cậy thế ỷ quyền, lợi dụng chức vụ để chiếm đoạt của người.
- Cân non đong thiếu, trốn xâu lậu thuế... đều gọi là trộm cướp.

4) Phật chế giới "không tà dâm" vì lý do gì ?
- Tôn trọng sự công bình: Mỗi người ai cũng muốn gia đình mình đầm ấm yên vui, vợ con mình đoan chánh, thì sao lại đi phá hại đình người khác làm nhục nhã tông môn người, đưa vợ con người vào đường dâm loạn.
- Bảo vệ hạnh phúc gia đình mình và gia đình người: Không gì đau khổ, đen tối hơn, khi một gia đình mà người chồng hoặc vợ có dạ riêng tư, tà vạy. Khi một người rắp tâm phá hoại hạnh phúc gia đình người khác thì chính hạnh phúc gia đình họ cũng đã tan rã trước. Cho nên cấm tà dâm là điều kiện cần thiết để xây dựng hạnh phúc cho gia đình mình và gia đình người.
- Tránh oán thù và quả báo xấu xa: Trong các sự oán thù, không có sự oán thù nào mãnh liệt bằng sự oán thù do sự lừa dối phụ rẫy về tình ái gây ra. Những vụ án mạng cũng thường hay xảy ra do việc ngoại tình. Kiếp sau nếu được làm người sẽ bị quả báo thân hình thô tục xấu xí, gia đình không được hạnh phúc, ấm êm.

5) Nói dối trong trường hợp nào thì không có tội ?
Nói dối trong trường hợp do lòng từ bi thúc đẩy, muốn cứu người hay vật thì không phạm tội.

Trích: Hỏi - Đáp Phật học.

Thứ Năm, 14 tháng 3, 2013

Tụng kinh tại nhà

HỎI: Tôi là một Phật tử tại gia có nhân duyên với pháp môn Tịnh độ. Tuy công việc bận rộn nhưng tôi đã ăn chay trường, thường xuyên đi chùa và tụng kinh niệm Phật hàng đêm tại nhà. Tôi thường tụng kinh A Di Đà, Phổ Môn, Dược Sư, trì chú Đại Bi và thực hành niệm Phật cùng các nghi thức sám hối.

HỎI: Tôi là một Phật tử tại gia có nhân duyên với pháp môn Tịnh độ. Tuy công việc bận rộn nhưng tôi đã ăn chay trường, thường xuyên đi chùa và tụng kinh niệm Phật hàng đêm tại nhà. Tôi thường tụng kinh A Di Đà, Phổ Môn, Dược Sư, trì chú Đại Bi và thực hành niệm Phật cùng các nghi thức sám hối. Như vậy có cần phải tụng thêm kinh nào nữa không? Nếu tụng thì cách thức thế nào? Tôi có thói quen mở máy MP3 nghe kinh, niệm Phật và tụng niệm chung với máy có được không? Tôi muốn tìm hiểu và thọ giới Bồ tát thì phải như thế nào? Thọ giới Bồ tát có lợi ích gì? Nếu học thêm để hiểu về Thiền có trở ngại gì cho việc tu tập hiện tại không?(LƯƠNG THANH DUY DŨNG; jackluong@hotmail.com)

ĐÁP: Bạn Lương Thanh Duy Dũng thân mến!

Một Phật tử tại gia, tuy công việc bận rộn mà đã thực hành ăn chay trường, thường đi chùa và tụng kinh, niệm Phật là điều vô cùng quý hóa, thật đáng trân trọng vì không phải người Phật tử nào cũng làm được.

Đối với một hành giả tu tập pháp môn Tịnh độ, cốt yếu nhất là tin tưởng sâu sắc vào Đức Phật A Di Đà, những đại nguyện của Ngài cùng cảnh giới Cực lạc (Tín) đồng thời nguyện sanh về Cực lạc (Nguyện) và phát tâm trì niệm danh hiệu Phật A Di Đà liên tục (Hạnh). Ngoài ba yếu tố căn bản này, hành giả còn tụng kinh, lễ Phật, sám hối và thực hành các hạnh lành khác, tất cả đều hồi hướng trang nghiêm Tịnh độ.

Bạn đã trì tụng kinh A Di Đà, Phổ Môn, Dược Sư là rất tốt, có thể tụng thêm kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ (kinh văn căn bản của tông Tịnh độ), kinh Pháp Hoa, kinh Địa Tạng, kinh Hoa Nghiêm v.v… Phần lớn những kinh điển này đều xưng tán Phật A Di Đà, ca ngợi pháp môn niệm Phật, khuyến phát nguyện sanh Tây phương, có tác dụng trợ duyên tích cực cho các hành giả Tịnh độ.

Việc tụng niệm hàng ngày, căn bản nhất là tụng kinh A Di Đà và niệm danh hiệu Ngài. Ngoài ra, có thể tùy duyên phát nguyện trì tụng những bộ kinh khác như Pháp Hoa hay Hoa Nghiêm chẳng hạn. Đối với những bộ kinh dài thì tụng mỗi ngày một phẩm, với thời lượng nhất định (trên dưới 1 giờ) cho đến khi nào hết toàn bộ kinh. Sau khi tụng xong mỗi phẩm, trì niệm danh hiệu Phật A Di Đà (108 biến hoặc nhiều hơn), lễ Phật, tụng sám và phát nguyện hồi hướng, vãng sanh giống như nghi thức tụng kinh A Di Đà trong các thời khóa Tịnh độ vậy. Hoặc có thể thay đổi thời tụng kinh bằng cách thực hành lễ Phật theo các bộ kinh sám như Vạn Phật Danh, Hồng Danh, Lương Hoàng Sám, Thủy Sám. Đến lúc tụng hết bộ kinh hoặc lạy xong kinh sám, bạn có thể phát nguyện tụng bộ kinh khác hoặc trở lại tụng kinh A Di Đà như mọi ngày.

Việc mở kinh hay niệm Phật bằng máy MP3, để có thể nghe được pháp âm trong lúc làm việc là điều rất tốt, nên duy trì. Phương tiện nghe MP3 hiện nay khá rẻ, rất gọn nhẹ, tiện lợi, dung lượng lớn, có thể mang theo dễ dàng, người sử dụng có thể nghe kinh hoặc niệm Phật mọi lúc mọi nơi. Trong khi làm việc, nên nghe niệm danh hiệu Phật và niệm theo thì dễ dàng nhiếp tâm hơn. Khi rảnh rỗi thư nhàn, nghe kinh sẽ hiểu được ý kinh nhiều và sâu hơn.

Bạn quan tâm tìm hiểu và mong muốn thọ trì giới Bồ tát, điều này thật chính đáng. Bởi đỉnh cao của sự tu tập đối với hàng Phật tử tại gia là phát Bồ đề tâm, thọ trì Bồ tát giới, hành Bồ tát đạo. Người thọ giới Bồ tát hướng đến giác ngộ và cứu độ chúng sanh. Dựa trên nền tảng Đại bi, người Phật tử phát khởi Bồ đề tâm, hành Bồ tát đạo, viên mãn tự lợi và lợi tha là lý tưởng hành đạo của Bồ tát.

Người thọ trì giới Bồ tát phải thực hành ăn chay trọn đời (điều này rất khó đối với hàng Phật tử tại gia nhưng bạn đã làm được) và giữ giới (10 giới lớn và 48 giới nhỏ). Bạn nên tham khảo thêm Phạm Võng Bồ tát giới bổn, Bồ tát thiện giới kinh (đã được dịch ra tiếng Việt) để biết và lượng sức có thể kham nhẫn và thọ trì được hay không.

Muốn thọ giới, bạn phải đến các Đại giới đàn (do Ban Trị sự Phật giáo tỉnh, thành tổ chức) để đăng ký và được chư Tăng truyền trao giới pháp. Sau khi thọ giới xong, bạn cần cầu học thêm nơi chư Tăng để biết các phương thức tu tập cũng như sự phát tâm, lập nguyện của một hành giả Bồ tát.

Có năm điều lợi ích cho hành giả thọ trì giới Bồ tát: Được chư Phật trong mười phương hộ niệm; Lâm chung tâm thần không loạn động, chánh niệm hiện tiền; Sanh nơi nào cũng được gần chư Bồ tát; Thành tựu nhiều công đức lớn; Nhờ trì giới nên đạt được định, huệ viên mãn, chứng đắc quả vị Phật.

Dù bạn tu tập theo pháp môn Tịnh độ nhưng nếu có điều kiện nghiên cứu thêm về Thiền học lại càng hay và không trở ngại gì đối với sự tu tập hiện tại của bạn. Bởi trong Thiền có Tịnh và trong Tịnh luôn có Thiền.
Soure: giac ngo online

NGHI THỨC TỤNG KINH HẰNG NGÀY DÀNH CHO PHẬT TỬ TRẺ

I. NGHI LỄ TỤNG KINH CÙNG ĐẠI CHÚNG  (Đại chúng đồng quỳ, chắp tay, đọc)

 

1. Tịnh pháp giới chân ngôn: Án lam tóa ha (3 lần)

 

2. Tịnh Tam nghiệp chân ngôn:

Án ta phạ bà phạ, thuật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ thuật độ há. (3 lần) (Gõ 1tiếng chuông)

 

3. Cúng hương: (Hát, chậm rãi)

Trầm hương đốt, xông ngát mười phương

Nguyện nguyện kính Đức Nghiêm Từ vô lượng.

Cầu cầu xin chứng tâm thành chúng con

Vần vần khói kết mây lành cúng dường.

Đạo nhiệm mầu đã lan truyền nơi cùng nơi

Nhờ chân lý chúng sanh đều thoát luân hồi.

Đồng quy kính quỳ dưới Đài sen

Dâng hoa thơm tinh khiết màu thắm tươi cành.

Đài quang vinh sáng huy hoàng trang nghiêm

Ơn mười phương Điều Ngự hào quang an lành.

Nhìn Đạo uyển chuyển soi khắp cùng quần sanh

Phật đạo đồng cùng nhau tu tinh tấn mau viên thành.

Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật ... hm... hm... (2 lần). (C)

 

4. Tán Phật: (Chủ lễ xướng)

Xinh tốt như hoa sen

Rạng ngời như Bắc Đẩu

Xin quay về nương náu

Bậc thầy của nhân, thiên.

Sen quý nở đài giác ngộ

Hào quang chiếu rạng mười phương

Trí tuệ vượt tầm pháp giới

Từ bi thấm nhuận non sông

Vừa thấy dung nhan Điều ngự

Trăm ngàn phiền não sạch không

Hướng về tán dương công đức

Tinh chuyên đạo nghiệp vun trồng. (C)

 

5. Lạy Tam Bảo: (Sau khi nghe chuông lạy xuống)

- Nhất tâm đảnh lễ 10 phương Thường trú Tôn Phật (C)

- Nhất tâm đảnh lễ 10 phương Thường trú Tôn Pháp (C)

- Nhất tâm đảnh lễ 10 phương Thường trú Hiền Thánh Tăng (C)

 

6. Chú Đại Bi:

 

NAM MÔ ĐẠI BI HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT (3 lần) (C)

Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni.

Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a lị da bà lô kiết đế thước bát ra da. Bồ đề tát đỏa bà da. Ma ha tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. An tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa.

Nam mô tất kiết lật đỏa y mông, a lị da bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà.

Nam mô na ra cẩn trì, hê lị ma ha bàn đà sa mế. Tát bà a tha đậu thâu bằng a thệ dựng, tát ba tát đá, na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. An a bà lô hê lô ca đế, ca ra đế, di hê lị. Ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê lị đà dựng. Câu lô câu lô kiết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha phạt xa da đế. Đà ra đà ra địa ri ni, thất phật ra da. Giá ra giá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ. Y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô, ma ra hô lô hô lô hê rị. Ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô. Bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế rị dạ. Na ra cẩn trì địa rị sắc ni na. Ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha, Ma ha tất đà dạ ta bà ha, Tất đà du nghệ thất bàn ra da, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khư da ta bà ha, ta bà ma ha a tất đà dạ ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng kiết ra dạ, ta bà ha. (C)

Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a lị da bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ ta bà ha. An tất điện đô mạn đa ra bạt đà dạ, ta bà ha. (C)

 

7. Sám nguyện: (Đồng qùy, chắp tay, tất cả đều tụng)

Trang nghiêm đài sen ngự tọa

Đại hùng từ phụ Thích Ca

Đệ tử lắng lòng thanh tịnh

Bàn tay chắp thành liên hoa

Cung kính hướng về Điều ngự

Dâng lời sám nguyện thiết tha.(C)

 

Đệ tử phước duyên thiếu kém

Sống trong thất niệm dài lâu

Không được sớm gặp chánh pháp

Bao nhiêu phiền lụy đã gây

Bao nhiêu lỡ lầm vụng dại

Vô minh che lấp tháng ngày

Vườn tâm gieo hạt giống xấu

Tham, sân, tự ái dẫy đầy

Những nghiệp sát, đạo, dâm,vọng

Gây nên từ trước đến nay.

Những điều đã làm, đã nói

Thường gây đổ vỡ hàng ngày.

Bao nhiêu não phiền nghiệp chướng

Nguyện xin sám hối từ đây.(C)

 

Đệ tử thấy mình nông nổi

Con đường chánh niệm lãng xao

Chất chứa vô minh phiền não

Tạo nên bao nỗi hận sầu;

Có lúc tâm tư buồn chán

Mang đầy dằn vặt lo âu,

Vì không hiểu được kẻ khác

Cho nên hờn giận, oán cừu;

Lý luận xong rồi trách móc

Mỗi ngày mỗi chuốc khổ đau

Chia cách hố kia càng rộng

Có ngày không nói với nhau

Cũng không muốn nhìn thấy mặt

Gây nên nội kết dài lâu;

Nay con hướng về Tam Bảo

Ăn năn khẩn thiết cúi đầu. (C)

 

Đệ tử biết trong tâm thức

Bao nhiêu hạt tốt lấp vùi:

Hạt giống thương yêu, hiểu biết

Và bao hạt giống an vui.

Nhưng vì chưa biết tưới tẩm

Hạt lành không mọc tốt tươi

Cứ để khổ đau tràn lấp

Làm cho đen tối cuộc đời

Quen lối bỏ hình bắt bóng

Đuổi theo hạnh phúc xa vời.

Tâm cứ bận về quá khứ

Hoặc lo rong ruổi tương lai

Quanh quẩn trong vòng buồn giận

Xem thường bảo vật trong tay

Dày đạp lên trên hạnh phúc

Tháng năm sầu khổ miệt mài;

Giờ đây trầm xông bảo điện

Con nguyện sám hối đổi thay. (C)

 

 

Đệ tử tâm thành quy ngưỡng

Hướng về chư Phật mười phương

Cùng với các vị Bồ Tát

Thanh văn, Duyên giác,Thánh hiền

Chí thành cầu xin sám hối.

Bao nhiêu lầm lỡ triền miên

Xin lấy cam lồ tịnh thủy

Tưới lên dập tắt não phiền.

Xin lấy con thuyền chánh pháp

Đưa con vượt nẻo oan khiên.

Xin nguyện sống đời tỉnh thức

Học theo đạo lý chân truyền.

Thực tập nụ cười hơi thở

Sống đời chánh niệm tinh chuyên. (C)

 

Đệ tử xin nguyện trở lại

Sống trong hiện tại nhiệm mầu

Vườn tâm ươm hạt giống tốt

Vun trồng hiểu biết, thương yêu.

Xin nguyện học phép quán chiếu

Tập nhìn tập hiểu thật sâu

Thấy được tự tánh các pháp

Thoát ngoài sinh tử trần lao.

Nguyện học nói lời ái ngữ

Thương yêu, chăm sóc sớm chiều

Đem nguồn vui tới mọi nẻo

Giúp người vơi nỗi sầu đau

Đền đáp công ơn cha mẹ

Ơn thầy nghĩa bạn dày sâu.

Tín thành tâm hương một nén

Đài sen con nguyện hồi đầu.

Nguyện đức từ bi che chở

Trên con đường đạo nhiệm mầu

Nguyện xin chuyên cần tu tập

Vuông tròn đạo quả về sau. (C)

 

8. Sám hối: (Chủ lễ đọc từng câu một, sau đó đại chúng lặp lại)

Con đã gây ra bao lầm lỡ

Khi nói, khi làm, khi tư duy

Đam mê, hờn giận và ngu si

Nay con cúi đầu xin sám hối

Một lòng con cầu Phật chứng tri

Bắt đầu hôm nay nguyện làm mới

Nguyện sống đêm ngày trong chánh niệm

Nguyện không lặp lại lỗi lầm xưa.

Nam mô Cầu Sám Hối Bồ Tát Ma Ha Tát.(3 lần) (Chuông)

 

Bao nhiêu lầm lỗi cũng do tâm

Tâm tịnh còn đâu dấu lỗi lầm

Sám hối xong rồi lòng nhẹ nhõm

Ngàn xưa mây bạc vẫn thong dong.

Nam mô Cầu Sám Hối Bồ Tát Ma Ha Tát. (C)

 

8. Thần chú Diệt tội: (Thất Phật diệt tội chân ngôn)

Ly bà ly bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà la ni đế, ni ha ra đế, tỳ lê nễ đế, ma ha dà đế, chơn lăng càn đế, ta bà ha. (C)

 

9. Niệm Phật:

Ở phương Tây thế giới an lành

Con nay xin phát nguyện vãng sanh

Cúi xin đức Từ bi tiếp độ. (C)

Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới Đại từ Đại bi Tiếp dẫn Đạo sư A DI ĐÀ PHẬT. (C)

- NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT (21 lần) (C)

- NAM MÔ ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT (3 lần) (C)

- NAM MÔ ĐẠI THẾ CHÍ BỒ TÁT (3 lần) (C)

- NAM MÔ ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT (3 lần) (C)

- NAM MÔ THANH TỊNH ĐẠI HẢI CHÚNG BỒ TÁT (3 lần) (C)

 

10. Phục nguyện:

Nguyện ngày an lành, đêm an lành,

Đêm ngày sáu thời thường an lành,

Tất cả các thời đều an lành,

Nguyện đức Từ bi thường gia hộ. (C)

NAM MÔ TIÊU TAI GIÁNG CÁT TƯỜNG BỒ TÁT MA HA TÁT (3 lần) (C)

 

11. Tam quy:

Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng Tâm. (C)

Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sanh, thấu rõ kinh tạng, trí tuệ như hải. (C)

Tự quy y Tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, nhất thiết vô ngại. (C)

 

12. Hồi hướng:

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử và chúng sanh

Đều trọng thành Phật đạo. (C)

 

 

II. ĐỌC TUYÊN NGÔN - ĐIỀU LUẬT CÂU LẠC BỘ PHẬT TỬ TRẺ HẢI QUANG

 

1. Mục đích của CLB PTT HQ: Đối trị phiền não, tịnh hóa chướng duyên, giải trừ căng thẳng, xây dựng nhân cách, khai phát tâm linh, làm việc hiệu quả. (C)

 

2. Chủ trương của chúng ta: Đào tạo, hướng dẫn các bạn trẻ trở thành người có đại trí tuệ, biết yêu thương muôn loài, có đạo đức trong sáng, phụng đạo giúp đời, khiến công tác giáo hóa Phật Pháp và xã hội có những hỗ tương mật thiết, lợi lạc tình người, xã hội. (C)

 

3. Ý thức CLB PTT HQ:

Đoàn kết Trách nhiệm, Tu học Chuyên cần, Giao lưu Học hỏi, Hộ pháp Cứu đời. (C)

 

4.Phương châm của chúng ta:  

Tín Phật, học Pháp, kính Tăng


Phước điền vun đắp, lập thân giúp đời. (C)


 


 


III. 5 GIỚI NGƯỜI PHẬT TỬ TRẺ PHẢI GIỮ GÌN: (Cử người đọc luân phiên)

 

Giới thứ nhất: Bảo vệ sự sống (Không sát sanh)

Ý thức được những khổ đau do sự giết chóc gây ra, con xin nguyện thực tập nuôi dưỡng tuệ giác Tương Tức và lòng Từ Bi để có thể bảo vệ sinh mạng của con người, của các loài động vật, thực vật và môi trường của sự sống. Con nguyện không sát hại, không để kẻ khác sát hại và không yểm trợ cho bất cứ một hành động sát hại nào trên thế giới, trong tư duy cũng như trong đời sống hằng ngày của con. Thấy được rằng tất cả những bạo động do sự sợ hãi, hận thù, tham vọng và cuồng tín gây ra đều bắt nguồn từ cách tư duy lưỡng nguyên và kỳ thị, con nguyện học hỏi thái độ cởi mở, không kỳ thị và không cố chấp vào bất cứ một quan điểm, một chủ thuyết hay một ý thức hệ nào để có thể chuyển hóa hạt giống cuồng tín, giáo điều và thiếu bao dung trong con và trong thế giới. (C)

 

Giới thứ hai: Hạnh phúc chân thực (Không trộm cắp)

Ý thức được những khổ đau do lường gạt, trộm cắp, áp bức và bất công xã hội gây ra, con nguyện thực tập san sẻ thì giờ, năng lực và tài vật của con với những kẻ thiếu thốn, trong cả ba lĩnh vực tư duy, nói năng, và hành động của đời sống hằng ngày. Con nguyện không lấy làm tư hữu bất cứ một của cải nào không phải do tự mình tạo ra. Con nguyện thực tập nhìn sâu để thấy rằng hạnh phúc và khổ đau của người kia có liên hệ mật thiết đến hạnh phúc và khổ đau của chính con, rằng hạnh phúc chân thực không thể nào có được nếu không có hiểu biết và thương yêu, và đi tìm hạnh phúc bằng cách chạy theo quyền lực, danh vọng, giàu sang và sắc dục có thể đem lại nhiều hệ lụy và tuyệt vọng. Con đã ý thức được rằng hạnh phúc chân thực phát sinh từ chính tự tâm và cách nhìn của con chứ không đến từ bên ngoài, rằng thực tập phép tri túc con có thể sống hạnh phúc được ngay trong giây phút hiện tại nếu con có khả năng trở về giây phút ấy để nhận diện những điều kiện hạnh phúc mà con đã có sẵn. Con nguyện thực tập theo Chánh Mạng để có thể làm giảm thiểu khổ đau của mọi loài trên trái đất và để chuyển ngược lại quá trình hâm nóng địa cầu. (C)

 

Giới thứ ba: Tình thương đích thực (Không tà dâm).

Ý thức được những khổ đau do thói tà dâm gây ra, con xin học hỏi theo tinh thần trách nhiệm để giúp bảo hộ tiết hạnh và sự an toàn của mọi người, mọi gia đình và trong xã hội. Con biết tình dục và tình yêu là hai cái khác nhau, rằng những liên hệ tình dục do thèm khát gây nên luôn luôn mang tới hệ lụy, đổ vỡ cho con và cho kẻ khác. Con nguyện không có liên hệ tình dục với bất cứ ai nếu không có tình yêu đích thực và những cam kết chính thức và lâu dài. Con sẽ làm mọi cách có thể để bảo vệ trẻ em, không cho nạn tà dâm tiếp tục gây nên sự đổ vỡ của các gia đình và của đời sống đôi lứa. Con nguyện học hỏi những phương pháp thích ứng để chăm sóc năng lượng tình dục trong con, để thấy được sự thật thân tâm nhất như và để nuôi lớn các đức Từ, Bi, Hỉ và Xả, tức là những yếu tố căn bản của một tình yêu thương đích thực để làm tăng trưởng hạnh phúc của con và của người khác. Con biết thực tập Tứ Vô Lượng Tâm ấy, con sẽ được tiếp tục đẹp đẽ và hạnh phúc trong những kiếp sau. (C)

 

Giới thứ tư: Lắng nghe và ái ngữ (Không nói dối)

Ý thức được những khổ đau do lời nói thiếu chánh niệm và do thiếu khả năng lắng nghe gây ra, con xin nguyện học các hạnh Ái Ngữ và Lắng Nghe để có thể hiến tặng niềm vui cho người, làm vơi bớt nỗi khổ đau của người, giúp đem lại an bình và hòa giải giữa mọi người, giữa các quốc gia, chủng tộc và tôn giáo. Biết rằng lời nói có thể đem lại hạnh phúc hay khổ đau cho người, con nguyện học nói những lời có khả năng gây thêm niềm tự tin, an vui và hi vọng, những lời chân thật có giá trị xây dựng hiểu biết và hòa giải. Con nguyện không nói năng gì khi biết cơn bực tức đang có mặt trong con, nguyện tập thở và đi trong chánh niệm để nhìn sâu vào gốc rễ của những bực tức ấy, nhận diện những tri giác sai lầm trong con và tìm cách hiểu được những khổ đau trong con và trong người mà con đang bực tức. Con nguyện học nói sự thật và lắng nghe như thế nào để có thể giúp người kia thay đổi và thấy được nẻo thoát ra ngoài những khó khăn đang gặp phải. Con nguyện không loan truyền những tin mà con không biết chắc là có thật, không nói những điều có thể tạo nên những sự bất hòa trong gia đình và trong đoàn thể. Con nguyện thực tập Chánh Tinh Tấn để có thể nuôi dưỡng khả năng hiểu, thương, hạnh phúc và không kỳ thị nơi con và cũng để làm yếu dần những hạt giống bạo động, hận thù và sợ hãi mà con đang có trong chiều sâu tâm thức. (C)

 

Giới thứ năm: Nuôi dưỡng và trị liệu (Không uống rượu)

Ý thức được những khổ đau do thói tiêu thụ không chánh niệm gây nên, con nguyện học hỏi cách chuyển hóa thân tâm, xây dựng sức khỏe cơ thể và tâm hồn bằng cách thực tập chánh niệm trong việc ăn uống và tiêu thụ. Con nguyện nhìn sâu vào bốn loại thực phẩm là đoàn thực, xúc thực, tư niệm thực và thức thực để tránh tiêu thụ những thực phẩm độc hại. Con nguyện không uống rượu, không sử dụng các chất ma túy, không ăn uống hoặc tiêu thụ bất cứ một sản phầm nào có độc tố, trong đó có mạng lưới toàn cầu, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình, sách báo, bài bạc và cả chuyện trò. Con nguyện thực tập thường xuyên trở về với giây phút hiện tại để tiếp xúc với những gì tươi mát, có khả năng nuôi dưỡng và trị liệu trong con và xung quanh con, không để cho tiếc nuối và ưu sầu kéo con trở về quá khứ và không để cho lo lắng và sợ hãi kéo con đi về tương lai. Con nguyện không tiêu thụ chỉ để khỏa lấp sự khổ đau, cô đơn và lo lắng trong con. Con nguyện nhìn sâu vào tự tính tương quan tương duyên của vạn vật để học tiêu thụ như thế nào mà duy trì được an vui trong thân tâm con, trong thân tâm của xã hội, và trong môi trường sự sống. (C)

 

Ghi chú:

* Nghi thức Trì tụng này sử dụng vào các buổi lễ hằng ngày, hằng tuần dành cho Phật tử trẻ Hải Quang.

* Đại chúng đồng xướng và tụng… sau phần I (1, 2, 4) dành cho chủ lễ.

* Phần II – Đọc Tuyên ngôn điều luật CLB, chủ lễ đọc phần in đậm, đại chúng đọc phần tiếp theo.

 

*Tải về file gốc tại đây


 

* Các bạn trẻ cần thỉnh "Nghi thức tụng kinh dành cho Phật Tử Trẻ", liên hệ ĐĐ. Thích Hải Châu (093.703.8582), haichauthich@yahoo.com.vn

Ðời Người Trong Một Câu ! ! !


Nhà vua ấy, ngay từ lúc lên ngôi báu đã giao cho một viên đại thần cái trọng trách sưu tầm dưới các bầu trời xa lạ những tinh hoa rải rác trong vũ trụ và những triết lý của cuộc đời. Ý cửu trùng muốn thu nhập những cái hay ở đời để dựng một nguyên tắc trị dân.

Ba mươi năm trời đã qua, vị thanh niên anh tuấn nấy, chờ đợi tóc đã điểm bạc. Lễ khánh thọ ngũ tuần đã cử hành long trọng trong Hoàng cung. Lúc ấy quan đại thần cũng về với đoàn lạc đà, bốn vó trắng bụi đàng xa, và trên lưng chất hơn nghìn sách quý mà vị đại thần đã có công kết tập.

“Trẫm đã nhiều tuổi rồi, tinh hoa của trời đất nhiều đến thế. Trẫm làm sao xem hết. Khanh mang về rút ngắn lại cho trẫm đủ thời giờ xem.”

Ðoàn lạc đà lại chở những pho sách đi và mười năm sau nữa, bộ sách rút ngắn lại còn năm trăm quyển được dâng lên ngự lãm:

Nhà vua vuốt chòm râu bạc phau ngần ngại phán:

“Hãy còn nhiều quá. Tuổi trẫm đã lớn, đọc sao cho kịp. Khanh chịu khó về gạn lọc một lần nữa những tư tưởng huyền diệu trong ấy”.

Viên đại thần tận trung không hề nghĩ đến số năm tháng đã tàn tạ trên đầu, lui về một nơi u tịch kết tinh kho tư tưởng.

Sau năm năm triền miên, với bao nhiêu tinh hoa và tư tưởng cổ kim đông tây, viên quan già nua mừng rỡ khi thấy kết quả: năm trăm cuốn dồn lại chỉ còn một pho sách dầy. Một pho sách đầy chứa tất cả triết lý của muôn cuộc đời!

Cuốc sách dầy ấy, một buổi sớm được mang vào ngự lãm. Nhưng nhà vua đã nằm yên trên giường bệnh, chung quanh ngự y chầu chực.

Vừa mở mắt nhìn vị đại thần tận tâm và cuốn sách quý giá. Một nụ cười nhàn nhạt nở trên môi vua như ánh hoàng hôn.

Vua thở ra một giọng yếu nhỏ, viên đại thần quỳ xuống lắng tai đón lấy:

“Trẫm yếu lắm, một trang sách còn chưa thể xem được huống là cả cuốn… Song trước khi nhắm mắt, trẫm háo hức muốn biết qua những tư tưởng gì, những triết lý gì, đã chi phối cả đời người, đã điều khiển cả một vân mệnh… Khanh khá rút ngay quyển sách này thành một câu hay vài chữ cho trẫm xem kịp và đủ sức hiểu…”

Nét mặt viên đại thần trở nên trầm ngâm và hai mắt già nheo lại. Tử thần đã chờn vờn đâu đó. Các ngự y cúi đầu trước số mệnh. Nhà vua nằm yên khắc khoải chờ. Thời gian như ngừng hẳn lại. Không khí trở nên nặng nề và nghiêm trọng. Vàng son nội điện tự nhiên cũng hóa rầu rĩ. Mọi người chăm chú và kính cẩn nhìn viên đại thần đang lặng lẽ đem cuộc đời thu vào một câu. Sau một hồi suy nghĩ, viên đại thần từ từ bước đến bên án. Cả bộ Văn phòng tứ bảo hình như run khi bàn tay già đưa ra.

Bàn tay kính cẩn nâng cây bút, và nhẹ nhàng vạch trên mảnh hoa tiên những nét buồn lung linh. Mọi người đều ngó theo. Thần chết lúc ấy đã chập chờn đầu long sàng. Ðã mấy lần nhắm mở. Vua mới cất được mấy tiếng cuối cùng: “SANH LÃO BỆNH TỬ”.

Thuật giả: Tâm Phước
Nguồn: quangduc.com

Tại Sao Phải Niệm Phật?


Thành Thất La Phiệt có một ông hoàng tánh rất hung bạo. Thêm vào đó, quyền thế và địa vị của ông có thể giúp ông thủ tiêu tội án trước pháp luật. Chưa một lời phải, một đạo giáo nào cảm hóa được ông. Một hôm ông gặp Phật khi Phật du hóa xứ này. Mới thấy, lòng ông bỗng cảm phục như voi dữ trước quản tượng. Ngài có dạy ông vài lời sơ lược: “Hãy tưởng niệm Phật Ðà, hãy từ bi thương người, sốt sắng cứu người”. Ông cung kính vâng lời. Nhưng khi về đến nhà, vừa thấy người hành khất, ông liền đùng đùng nổi giận. Lời vàng của Phật không còn trong lòng của ông nữa, khi ông toan đánh đuổi người. Bỗng sực nhớ lại hình dáng từ nghiêm của Phật, ông liền dịu lại, nhưng không bố thí chút gì. Tối hôm đó vợ ông lấy làm lạ, gạn hỏi đầu đuôi. Ông bèn tuần tự thuật lại. Nhờ thuật lại, ông nhớ lại rõ ràng hình dung Ðức Phật và lời Ngài dạy. Ðêm hôm ấy ông suy nghĩ mung lung. Ông nghĩ:

“Nhớ Phật, phải nhớ đến người nghèo khổ, tưởng Phật phải tưởng đến người nghèo khổ”. Rồi trời mới sáng ông liền đi tìm Phật. Giữa đường gặp một người hành khất ốm liệt bên vệ đường, ông suy nghĩ, ông đến ân cần hỏi han và dốc hết tiền túi ra cho. Người ấy e sợ, cám ơn rối rít. Nhưng ông chỉ bảo: “Vì tưởng nhớ Phật, nên tôi giúp anh. Anh nhận tiền này khiến tôi được phước, thế là tôi chịu ơn anh, chớ nào anh có mang ơn gì với tôi”. Người hành khất nghe thế, lấy làm lạ, vì không lạ gì tánh nết của ông và uy danh của Ðức Phật nữa. Bỗng nhiên người ấy cất tiếng niệm: “NAM MÔ PHẬT ÐÀ” (kính lễ đấng Giác Ngộ). Ông hoàng cũng bất giác niệm theo và đi mau tìm Phật. Khi gặp được Phật ông thuật lại rõ đầu đuôi mọi việc. Nghe xong, Ðức Phật mỉm cười hiền từ bảo: “Phải! Niệm Phật, ông hãy tưởng niệm người nghèo khổ. Tưởng niệm người nghèo khổ là tưởng chư Phật đó”.

Thân làm việc ích lợi
Miệng nói điều phải
Ý nghĩ những sự tốt đẹp
Như thế là niệm Phật

Trích báo: Viên Âm
Nam mô A Di Đà Phật _()_

Điều kiện để hạnh phúc


Cũng như các giá trị khác của đời sống, hạnh phúc cũng có những điều kiện của nó. Điều kiện của hạnh phúc là các yếu tố làm nên chính nó. Hầu như ai cũng cho rằng tiền bạc, sắc đẹp, danh tiếng, địa vị xã hội… là những yếu tố mang lại hạnh phúc cho con người. Tuy nhiên, qua tìm hiểu và phân tích, người ta thấy rằng hạnh phúc còn tùy thuộc rất nhiều vào quan niệm, nhận thức, sự cảm nhận của mỗi người. Điều kiện hạnh phúc của người đàn ông cũng không giống điều kiện hạnh phúc của người phụ nữ. Đa phần nam giới nhận thấy yếu tố mang lại hạnh phúc cho họ là quyền lực, địa vị và tiền bạc, trong khi đó yếu tố mang lại hạnh phúc cho phụ nữ là tình yêu, mái ấm gia đình, con cái, sự thành công trong các mối quan hệ, còn tiền bạc và sự nghiệp chỉ là thứ yếu. Vậy thì điều kiện của hạnh phúc là gì? Những nhân tố nào làm nên hạnh phúc? Tiền bạc, danh vọng, địa vị… chỉ là một trong những nhân tố góp phần làm nên hạnh phúc, chúng không phải là nhân tố duy nhất quyết định. Có thể hiểu hạnh phúc là trạng thái thoải mái, dễ chịu, cảm thấy thỏa mãn, hài lòng, sung sướng, vì thế nếu cơ thể không khỏe mạnh, gia đình không đầm ấm, các mối quan hệ không tốt đẹp, công việc gặp rắc rối, phải chịu nhiều áp lực căng thẳng trong cuộc sống thì liệu tiền bạc, danh vọng, địa vị có mang lại hạnh phúc cho chúng ta không? Chỉ khi cuộc sống có sự cân bằng hài hòa, hoặc chỉ khi chúng ta làm chủ được những tham muốn trong lòng, tìm thấy được niềm vui nội tại thì chúng ta mới có được hạnh phúc. Phải chăng đây mới chính là điều kiện của hạnh phúc.

Người ta thử tìm hiểu xem những người phụ nữ thành đạt có hạnh phúc không, thì thấy rằng thành đạt không phải là nhân tố quyết định mang lại hạnh phúc. Có rất nhiều phụ nữ thành công trong sự nghiệp, có nhiều tiền, có danh tiếng, có địa vị trong xã hội nhưng họ không hạnh phúc. Còn người đàn ông thành đạt có hạnh phúc không? Theo cuộc thăm dò vào tháng 4 năm 2008 của Nielsen – công ty hàng đầu thế giới về cung cấp thông tin và tiếp thị, với sự tham gia của gần 30.000 người trên 51 quốc gia, thì chính những yếu tố quyền lực, địa vị và tiền bạc đã làm cho người đàn ông không hạnh phúc bằng phụ nữ. Nghiên cứu này cũng cho biết hạnh phúc không phụ thuộc vào các yếu tố quyền lực, địa vị và tiền tài. Cũng chính vì thế, một điều khiến cho người ta khó có thể tin là người nghèo thường cảm nhận hạnh phúc nhiều hơn người giàu (Theo kết quả thăm dò của Nielsen về sự cảm nhận hạnh phúc ở những nhóm khác nhau: đàn ông và phụ nữ, người giàu và người nghèo). Xem ra từ bấy lâu người ta đã đánh giá sai lầm những giá trị sống. Cho rằng tiền bạc trong đời sống, nhất là đối với xã hội tiêu thụ thực dụng hiện nay, là điều kiện tất yếu mang lại hạnh phúc, dường như đó là nhận thức mang tính “thực tế” nhưng hóa ra lại sai lầm.

Tuy nhiên, thật không dễ có được sự cân bằng hài hòa trong cuộc sống, chỉ còn cách làm chủ những tham muốn của mình, sống với niềm vui bên trong tâm hồn để có hạnh phúc. Nếu làm được điều này thì dù ở trong hoàn cảnh nào chúng ta cũng có được niềm vui và hạnh phúc. Chẳng hạn như có những người tuy nghèo, họ thiếu thốn về vật chất nhưng họ vẫn có hạnh phúc nhờ biết tự mãn nguyện, biết vui với những gì mình đang có, không đòi hỏi, không mong cầu nhiều. Những bậc vĩ nhân của nhân loại sống không vì danh vọng, bạc tiền như mọi người trên thế gian mà họ vẫn thấy an vui, lạc quan và hạnh phúc. Các bậc tu hành cũng vậy, đời sống không có các thú vui hưởng thụ, thế mà họ vẫn bình thản an nhiên, không ưu phiền, không phàn nàn than thở.

Hạnh phúc có được từ sự làm chủ những tham muốn là thứ hạnh phúc không điều kiện. Ví dụ như khi giúp đỡ được nhiều người mà không mong cầu tri ân báo đáp, chúng ta cảm thấy hạnh phúc và thoải mái hơn khi mong cầu việc làm đó mang lại danh tiếng và lợi ích cho mình. Chính nhận định sai lầm và những tham muốn, khát vọng về tiền tài, danh vọng, địa vị đã khiến cho người ta quên đi những giá trị sống khác như tình bạn, tình yêu, sự an lạc của gia đình, niềm vui và sự thỏa mãn với những gì đang có, lòng vị tha, bác ái, sự bình an và thanh thản của tâm hồn v.v. Những giá trị sống này mang lại hạnh phúc rất nhiều cho chúng ta, chúng luôn tồn tại trong chúng ta và xung quanh chúng ta nhưng vô tình chúng ta quên bỏ.

Trong thời gian khủng hoảng tài chính và kinh tế toàn cầu vừa qua, ở Estonia người ta thực hiện ý tưởng thành lập một ngân hàng gọi là “Ngân hàng hạnh phúc” (Happy bank). Khác với ngân hàng bình thường, Ngân hàng hạnh phúc “huy động vốn” và “cho vay”những ý tưởng, sáng kiến mang đến niềm vui, niềm hạnh phúc cho mọi người để vượt qua những khó khăn thử thách trong thời kỳ kinh tế suy thoái. Người sử dụng dịch vụ Ngân hàng hạnh phúc mở tài khoản và làm giàu tài khoản của mình bằng cách cống hiến ý tưởng và làm nhiều điều tốt có ích cho cộng đồng xã hội, mang lại hạnh phúc cho mọi người. Tài khoản càng lớn khi có nhiều ý tưởng, sáng kiến đóng góp và làm nhiều điều tốt. Ở đây người giàu có không phải là người có nhiều tiền mà là người có nhiều đóng góp cho cộng đồng, xã hội. Lãi suất của ngân hàng chính là niềm vui và hạnh phúc mà mình có được khi làm điều tốt. Những người tham gia đầu tư vào Ngân hàng hạnh phúc ý thức được rằng giá trị hạnh phúc không lệ thuộc vào giá trị tiền bạc, nhờ đó họ không bị suy sụp, khủng hoảng tâm lý trước tình trạng biến động của nền kinh tế, họ thấy rằng dù nghèo khó về tiền bạc nhưng giàu có về tâm hồn vẫn tạo cho cuộc sống nhiều niềm vui và hạnh phúc. Qua hoạt động của Ngân hàng hạnh phúc người ta biết thông cảm và thương yêu nhau hơn, biết chia sẻ, giúp đỡ nhau, cùng chung tay cải thiện cuộc sống. Hàng trăm diễn đàn cộng đồng do Ngân hàng hạnh phúc tổ chức tạo điều kiện cho mọi người trao đổi, sẻ chia những kinh nghiệm sống, những ý tưởng thiết thực hữu ích mang lại niềm vui, hạnh phúc cho mọi người.

Hạnh phúc luôn là mục tiêu con người hướng đến. Ai cũng biết, sống thì cần nơi ăn chốn ở, cần ăn uống ngủ nghỉ, rèn luyện, làm việc để cơ thể vật lý tồn tại, cần sinh hoạt, thưởng thức văn hóa tinh thần để nuôi dưỡng tình cảm, tâm lý. Tuy nhiên sống làm sao, sống như thế nào để có hạnh phúc là điều vô cùng quan trọng, đó là cả một nghệ thuật, đòi hỏi nhiều ở kỹ năng nhận thức, tư duy và hành động trong quá trình xây dựng cuộc sống.

Sự nhận thức sai lầm về các giá trị sống là nguyên nhân lớn dẫn đến đời sống không hạnh phúc. Nguyên nhân này chịu tác động rất nhiều từ nghiệp riêng của mỗi con người (biệt nghiệp), môi trường sống, gia đình và hoàn cảnh xã hội. Ví dụ như trong đời sống hiện đại, vì đánh giá sai về giá trị của tiền bạc mà người ta đánh mất hạnh phúc gia đình, đánh mất bản thân, xã hội xảy ra nhiều tệ nạn. Tiền bạc có thể làm chất xúc tác để tạo ra hạnh phúc nhưng tiền bạc không thể đánh đổi hạnh phúc, tiền bạc không mua được hạnh phúc. Có nhiều giá trị hạnh phúc mà tiền bạc không mua được, đó là sinh mạng, sức khỏe, tình yêu, niềm vui trong công việc, trong cuộc sống, lòng tin yêu, sự êm ấm trong gia đình, niềm vui trong mối quan hệ với người thân và bè bạn… Khi nhận thức lệch lạc sẽ dẫn đến những suy nghĩ và hành động sai lầm, tiêu cực, chẳng hạn như chúi mũi vào việc kiếm tiền mà quên đi hạnh phúc gia đình, quên cả bản thân (bỏ qua những niềm vui trong cuộc sống cá nhân, cuộc sống gia đình, xã hội, quên việc quan tâm sức khỏe, việc ngăn ngừa, điều trị bệnh tật, bất chấp tuổi tác v.v.). Có người vì mục tiêu kiếm cho thật nhiều tiền mà không ngại dùng những âm mưu thủ đoạn xấu xa đen tối, gây tạo tội ác, vi phạm pháp luật, trái với đạo đức, chẳng hạn như tham nhũng, tham ô, lừa đảo chiếm đoạt, trộm cướp, cờ bạc, bán sắc buôn hương…

Hiện nay báo chí rầm rộ phê phán tình trạng các ca sĩ, diễn viên đang tạo tên tuổi, sự thu hút bằng cách “khoe hàng”, ăn mặc hở hang phô bày hình thể. Nguyên nhân của hiện tượng này cũng là sự nhận thức sai lầm, lệch lạc về cái đẹp, về giá trị con người, giá trị nghệ thuật. Một ca sĩ, diễn viên đẹp trong mắt người hâm mộ là một người không chỉ có vẻ đẹp bên ngoài (nhan sắc, hình thể) mà còn ở chỗ trình độ nghệ thuật, phong cách biểu diễn, tinh thần phục vụ, đạo đức nghề nghiệp…

Có tinh tế, có biết cảm nhận niềm hạnh phúc trong cuộc sống hay không cũng là nguyên nhân khiến cho người ta có hay không có hạnh phúc. Việc có được một đời sống cân đối, hài hòa giữa vật chất và tinh thần, giữa cá nhân, gia đình và xã hội là điều không phải dễ. Có người thành công ngoài xã hội nhưng thất bại trong gia đình, có người thì ngược lại, thành công trong gia đình nhưng không thành công ngoài xã hội. Nếu cứ cho rằng phải đạt được mục tiêu này, tiêu chí nọ thì mới có niềm vui, mới có hạnh phúc, rồi quên bỏ tất cả những giá trị sống khác, để cố sức đạt được mục tiêu thì cả một quá trình phấn đấu là cả một chặng đường nhọc nhằn không hạnh phúc. Nhưng nếu tinh tế hơn, biết cảm nhận niềm vui, hạnh phúc trong quá trình sống và làm việc, trong quá trình nỗ lực phấn đấu, ý thức được rằng hạnh phúc luôn có mặt trên mỗi chặng đường ta đi qua, ta phải biết cảm nhận nó, thì dù chưa đạt được mục tiêu ta vẫn có hạnh phúc, ta vẫn có niềm vui. Còn như đợi đạt được mục tiêu rồi ta mới có hạnh phúc thì biết đâu sau mục tiêu đó còn có các mục tiêu khác được đặt ra, đâu là mục tiêu cuối cùng; mà như vậy, hạnh phúc có được chỉ là thứ hạnh phúc tạm thời và ngắn ngủi, biết bao giờ ta mới có được hạnh phúc lâu bền? Hoặc nếu như ta không đạt được mục tiêu thì sao? Đâu chắc mọi sự nỗ lực đều thành công cả. Ví dụ một người nuôi con, nếu cứ nghĩ rằng mình chỉ thấy vui, thấy hạnh phúc khi con mình lớn khôn, ăn học thành tài, thì người đó sẽ không có được hạnh phúc khi con mình còn bé nhỏ. Trên thực tế người đó có thể rất hạnh phúc khi vui đùa bên con, khi đưa đón con đến trường, khi ru con ngủ, khi mớm con ăn v.v.; có nghĩa là người ấy có thể tìm thấy hạnh phúc trong quá trình nuôi con khôn lớn. Bởi thế, có hạnh phúc hay không có hạnh phúc, có hạnh phúc nhiều hay có hạnh phúc ít còn tùy thuộc vào việc ta biết cảm nhận hạnh phúc hay không, và cảm nhận ít hay nhiều, tùy thuộc vào việc ta biết tạo ra hạnh phúc cho chính mình hay không.

(Phan Minh Đức)

KINH THẾ GIAN PHƯỚC

Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật du hóa Câu-xá-di, ở tại vườn Cù-sa-la.

Bấy giờ vào lúc xế chiều, Tôn giả Ma-ha Châu-na, rời khỏi nơi tĩnh tọa đứng dậy, đi đến chỗ Phật; đến rồi đảnh lễ, lui ngồi một bên, bạch rằng:

“Bạch Thế Tôn, có thể thi thiết thế gian phước được chăng?”

Thế Tôn nói:

“Có thể, này Châu-na, có bảy loại phước thế gian, có phước hựu lớn, có quả báo lớn, có danh dự lớn, có công đức lớn. Những gì là bảy?

“Này Châu-na, có tộc tánh nam hay tộc tánh nữ có tín tâm cúng thí phòng xá, nhà gác cho đại chúng Tỳ-kheo. Đó là loại phước thế gian thứ nhất, có phước hựu lớn, có quả báo lớn, có danh dự lớn, có công đức lớn.

“Lại nữa, Châu-na, có tộc tánh nam hay tộc tánh nữ có tín tâm, ở trong các phòng xá, cúng thí giường nằm, đồ ngồi, đệm lông, thảm dệt, chăn len, ngọa cụ trong các phòng xá. Châu-na, đó là loại thế gian phước thứ hai, có phước hựu lớn, có quả báo lớn, có danh dự lớn, có công đức lớn.

“Lại nữa, Châu-na, có tộc tánh nam hay tộc tánh nữ có tín tâm, ở trong các phòng xá, cúng thí y phục mới mẽ, sạch sẽ, đẹp đẽ. Châu-na, đó là loại thế gian phước thứ ba, có phước hựu lớn, có quả báo lớn, có danh dự lớn, có công đức lớn.

“Lại nữa, Châu-na, có tộc tánh nam hay tộc tánh nữ có tín tâm, ở trong các phòng xá, thường xuyên cúng thí chúng tăng cháo buổi sáng, thức ăn buổi trưa, lại cung cấp người làm vườn[8] để sai bảo; hoặc gió, mưa, tuyết, lạnh, tự mình thân đến khu vườn mà cúng thí chu cấp thêm. Các Tỳ-kheo sau khi ăn, không lo gió, mưa, tuyết lạnh khiến y phục bị ướt át, mà ngày đêm yên vui, tư duy thiền tọa vắng lặng[9]. Châu-na, đó là loại thế gian phước thứ bảy, có phước hựu lớn, có quả báo lớn, có danh dự lớn, có công đức lớn.

“Châu-na, có tộc tánh nam hay tộc tánh nữ có tín tâm, nếu đã tạo được bảy loại phước thế gian này rồi, hoặc đi, hoặc đến, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc ngủ, hoặc thức, hoặc ngày, hoặc đêm, phước đức ấy thường xuyên phát sinh, càng lúc càng thêm, càng lúc càng rộng.

“Châu-na, ví như nước sông Hằng-già từ nguồn chảy ra, tuôn vào đại hải, ở vào khoảng giữa càng lúc càng sâu, càng lúc càng rộng. Cũng vậy, Châu-na, tộc tánh nam hay tộc tánh nữ có tín tâm ấy, đã tạo được bảy loại phước thế gian này rồi thì hoặc đi, hoặc đến, hoặc ngồi, hoặc ngủ, hoặc thức, hoặc ngày, hoặc đêm, phước đức ấy càng sinh, càng lúc càng thêm, càng lúc càng rộng”.

Bấy giờ, Tôn giả Ma-ha Châu-na từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai áo bên hữu, gối phải sát đất, quỳ dài, chắp tay, bạch rằng:

“Bạch Thế Tôn, có thể thi thiết phước xuất thế gian được chăng?

Thế Tôn bảo rằng:

“Có thể được Châu-na, lại có bảy loại phước xuất thế gian, có phước hựu lớn, có quả báo lớn, có danh dự lớn, có công đức lớn. Những gì là bảy?
Châu-na, có tộc tánh nam hay tộc tánh nữ có tín tâm, nghe Như Lai hoặc đệ tử Như Lai đang trú ở nơi nào đó. Sau khi nghe, liền hoan hỷ, trong lòng rất phấn khởi. Châu-na, đó là loại phước xuất thế gian thứ nhất, có phước hựu lớn, có quả báo lớn, có danh dự lớn, có công đức lớn.

“Lại nữa, Châu-na, có tộc tánh nam hay tộc tánh nữ có tín tâm, nghe Như Lai hoặc đệ tử Như Lai sẽ từ nơi kia đến đây, nghe rồi vui vẻ, trong lòng rất phấn khởi. Châu-na, đó là loại phước xuất thế gian thứ hai, có phước hựu lớn, có quả báo lớn, có danh dự lớn, có công đức lớn.

“Lại nữa, Châu-na, có tộc tánh nam hay tộc tánh nữ có tín tâm, nghe Như Lai hoặc đệ tử Như Lai sẽ từ nơi kia đến đây, nghe rồi vui vẻ, trong lòng rất phấn khởi. Với tâm thanh tịnh, đích thân tới thăm viếng, lễ kính, cúng dường. Sau khi cúng dường, thọ pháp ba tự quy, đối với Phật, Pháp và Chúng Tỳ-kheo mà thọ giới cấm. Châu-na, đó là loại phước xuất thế gian thứ bảy, có phước hựu lớn, có quả báo lớn, có danh dự lớn, có công đức lớn.

“Châu-na, tộc tánh nam hay tộc tánh nữ có tín tâm, nếu tạo được bảy loại phước thế gian này và lại có bảy loại phước xuất thế gian, thì phước của người kia không thế tính được, có chừng ấy phước, có chừng ấy kết quả của phước, có chừng ấy phước báo. Chỉ có thể nói là không thể hạn, không thể lượng, và không thể biết được con số đại phước.

“Châu-na, ví như từ châu Diêm-phù có năm con sông: Một là Hằng-già, hai là Dao-vưu-a, ba là Xá-lao-phù, bốn là A-di-la-bà-đề và năm là Ma-xí, đều chảy về đại hải. Ở khoảng giữa của chúng, không thể tính được số nước của bao nhiêu thăng hộc. Chỉ có thể nói là số nước nhiều không thể hạn, không thể lượng, và không thể biết được.

“Cũng vậy, Châu-na, tộc tánh nam hay tộc tánh nữ có tín tâm, nếu tạo được bảy loại phước thế gian này và lại có bảy loại phước xuất thế gian, thì phước của người kia không thế tính được, có chừng ấy phước, có chừng ấy kết quả của phước, có chừng ấy phước báo. Chỉ có thể nói là không thể hạn, không thể lượng, và không thể biết được con số đại phước”.

Bấy giờ Thế Tôn nói bài tụng rằng:

Con sông Hằng-già

Trong sạch, dễ qua.

Biển nhiều báu quý,

Là vua các sông.

Cũng như nước sông,

Người đời kính phụng;

Mọi nơi chảy về,

Tuôn về biển cả.

Cũng vậy, người nào

Cúng y, thực phẩm,

Giường chõng, đệm chăn,

Và những tọa cụ;

Phước báo không lường,

Đưa đến cõi lành,

Cũng như nước sông

Tuôn về biển rộng.

Phật thuyết như vậy. Tôn giả Ma-ha Châu-na và các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.

( SỐ 26 – KINH TRUNG A-HÀM
Hán dịch: Phật Đà Da Xá và Trúc Phật Niệm
Việt dịch và hiệu chú: Thích Tuệ Sỹ )

Thứ Hai, 11 tháng 3, 2013

Tu là bỏ cái giả nhận ra cái thật

Khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thành đạo dưới cội bồ đề, thởi gian đầu Ngài chần chờ không muốn truyền bá giáo pháp. Đến khi chư Thiên xuống đảnh lễ, cầu xin Ngài nên vì chúng sanh mà lập bày phương tiện giáo hóa. Lúc trước đọc sử tới đoạn này tôi hơi ngạc nhiên. Vì Đức Phật phát thệ nguyện lớn, thị hiện nơi đời để độ chúng sanh, sao bây giờ thành Phật rồi, Ngài không chịu đi truyền bá Chánh pháp, đợi năn nỉ mới chịu thuyết pháp. Về sau nghiên cứu kỹ tôi mới thấy rõ, quả là chỗ Đức Phật thấy, Đức Phật không thể nói cho người thế gian hiểu. Tại sao? Bởi vì chỗ đó ngược hẳn với cái thấy của người phàm tục, nên làm sao giảng cho họ hiểu được. Vì vậy Phật không muốn nói. Khi chư Thiên nài nỉ Phật dùng phương tiện giáo hóa chúng sanh, từ từ sẽ có người hiểu; Phật xét thấy điều này hợp lý nên kể từ đó mới chuyển bánh xe Đại pháp.

Bài pháp đầu tiên ở vườn Lộc Uyển là bài Tứ đế, nói đủ là Tứ diệu đế. Lâu nay người học Phật xem đây là chân lý đầu tiên, Đức Phật trình bày rất đúng, rất thật. Nhưng đó là phương tiện, chớ không phải chỗ cứu kính chân thật. Nếu quý vị có đọc kinh Kim Cang, kinh Viên Giác sẽ thấy Phật dạy rằng: Pháp của Phật như con thuyền hay chiếc bè đưa người qua sông. Khi lên bờ rồi phải bỏ chiếc bè. Kinh Viên Giác nói, ví như người muốn thấy mặt trăng ở đâu? Người bạn thấy được liền lấy tay chỉ bảo “mặt trăng ở đó”. Nương theo ngón tay người kia nhìn thấy mặt trăng. Khi thấy mặt trăng rồi ngón tay là vô nghĩa. Cũng thế, pháp của Phật dạy là phương tiện, giống như ngón tay để chỉ cho chúng ta đi tới chỗ chân thật. Chỗ chân thật ví như mặt trăng, đạt được chỗ chân thật rồi thì phương tiện phải bỏ.

Chúng ta nên biết pháp Phật là phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh. Bệnh lành thì thuốc phải bỏ. Giả sử bây giờ chúng ta bị sốt rét phải uống thuốc sốt rét. Khi bệnh đã lành hoàn toàn, nếu thấy thuốc hay quá tiếp tục uống nữa thì sao? Bệnh trở lại. Cho nên bệnh lành rồi phải bỏ thuốc.

Pháp của Phật dạy là tùy bệnh cho thuốc. Chúng sanh có bệnh nào Phật cho thứ thuốc ấy. Ví dụ người tham ái nhiều, Phật dạy phương thuốc quán bất tịnh. Thấy thân nhơ nhớp quá sanh gớm nên hết tham ái. Người hiếu danh nhiều Phật dạy quán vô thương, danh vọng được rồi sẽ mất, chớ không bền, nhờ quán như thế nên bớt hiếu danh. Từng phương thuốc trị từng bệnh cho chúng sanh. Nhưng tất cả đều là phương tiện chớ không phải cứu akính. Ban đầu Phật dùng phương tiện dẫn dắt chúng ta từ từ đi tới kết quả là cứu kính. Thế nên muốn đến chỗ cứu kính, trước phải qua phương tiện, nhưng đạt được cứu kính rồi thì phải bỏ phương tiện.

Chúng ta ngày nay cứ đem kinh đọc cho Phật nghe hoài, cho đó là tu kỹ. Ngày nào cũng đem kinh ra đọc mà không hiểu được ý Phật dạy. Học kinh để hiểu, hiểu để tu chớ không phải đem đọc cho Phật nghe. Phật tử chẳng những đọc cho Phật nghe, mà còn tính bộ với Ngài nữa. Quả thật là một sai lầm đáng thương!

Phật tử có ai tập ngồi thiền rồi , mới thấy tâm mình lăng xăng lộn xộn thế nào. Cho nên ngài Huệ Khả xin pháp an tâm là điều hợp lý vô cùng. Chúng ta cũng giống hệt vậy thôi. Nhưng câu trả lời của Tổ dường như hơi ngược ngạo, dạy pháp an tâm mà lại bảo “đem tâm ra ta an cho”. Chính chỗ này ngày xưa tôi cứ ngỡ dường như Tổ đùa chơi vậy. Người ta tha thiết học hỏi, mà Tổ lại như đùa, không ngờ ngài Huệ Khả lãnh hội được. Đó là điều chúng ta thấy khó hiểu. Sau này khi nhập thất tu, đọc lại sử, tôi mới giật mình thấy cái ngu trước. Bởi vì chúng ta bị si mê nên mãi chìm trong sanh tử. Si mê cái gì? Si mê chấp thân này là thân mình thật, tâm này là tâm mình thật. Hai cái si mê này khiến chúng ta cứ tạo nghiệp, đi mãi trong sanh tử.

Hiện giờ quý vị đều thầm đồng ý thân này thật nên mới quý, mới lo đủ thứ cho nó. Ví dụ có hai người đối trước món đồ giả, một người nói thật, một người nói giả. Vậy trong hai người đó, ai ngu ai trí? Giả mà tưởng thật là ngu, còn giả biết giả là trí. Vậy tôi đặt câu hỏi lại, thân này là thật hay giả? Giả. Nếu quý vị chỉ thấy cái giả theo câu hỏi của tôi, thì khi ra khỏi giảng đường này sẽ thấy nó thật hết. Đó là chỗ mê lầm của chúng ta.

Như quý vị đang ngồi nói chuyện chơi với người thân, bất thần người ấy đứt gân máu ngã xuống tắt thở. Khi còn nói chuyện ta gọi đó là thật, đến lúc tắt thở mới biết nó giả. Nếu thật thì lúc nào cũng thật, trước sau cũng thật. Mọi người khi còn đi đứng, nói năng đều cho là thật, đến chừng ngã ra chết ai cũng bảo giả hết. Như vậy là sao? Chẳng lẽ nửa thật nửa giả. Thật ra trong giả có thật mà chúng ta không biết, nên lầm cho nó hoặc toàn giả hoặc toàn thật.

Chúng ta thử xét lại xem, hiện giờ mình sống đây, lỗ mũi đang thở. Hít vô là mượn không khí bên ngoài vào. Thở ra là trả không khí ra ngoài. Hít vô thả ra đều đều thì sống. Hít vô mà không trả ra được, trả ra mà không hít vô thì chết. Như vậy thật ở chỗ nào? Nếu thật thì khỏi mượn, đã mượn thì không thật. Một lát mượn tách nước, chút xíu lại trả ra. Đem vô trả ra. Đem vô được mà trả ra không được thì đi cấp cứu. Mượn trả đều đặn thì yên, không đều đặn không yên. Lâu hơn nữa thì mượn chén cơm. Mượn rồi cũng phải trả. Rõ ràng thân này sống bằng sự vay mượn liên tục. Đã vay mượn mà nói thật thì biết trí tuệ chúng ta tới cỡ nào? Chẳng lẽ mình ngu hết sao! Thế mà ra đường ai nói ngu đâu có chịu, trong khi thực sự mình ngu quá chừng? Nói thế để thấy chúng ta đang mê lầm. Từ mê lầm đuổi theo thân, lo cho nó, rốt cuộc rồi cũng mất. Như vậy có đáng thương không?

Đức Phật giác ngộ thấy thân này là giả, do đất, nước, gió, lửa hợp lại thành. Chất cứng là đất, chất ướt là nước, động là gió, ấm là lửa. Bốn thứ này đem vô trả ra. Còn mượn mà không trả ra thì chết. Như vậy ta có thân này, chẳng qua là cuộc sống vay mượn. Đó là điều thứ nhất.

Thứ hai, quý vị thường cho những suy nghĩ phân biệt là tâm mình. Vì thế buồn, thương, giận, ghét… đều là tâm ta. Nói “tôi buồn quá” thì buồn là tôi. Tôi vui, tôi giận, tôi ghét… tất cả là tôi hết. Cả trăm thứ, biết cái nào là tôi thật? Nên không có cái tôi thật. Như ta đang có chuyện buồn, bất thần một người bạn tri kỷ từ xa về, gặp lại nhau mình vui liền. Như vậy buồn không thật, nếu thật khi vui đến buồn đi đâu? Như vậy vui buồn không phải thật mình, chỉ là cái tạm bợ qua mất, mà ta lại chấp nó là tâm mình. Từ chấp đó, ta nghĩ việc này phải làm như thế này mới đúng, làm khác là sai. Nếu ai đề nghị khác mình, hoặc phản đối ý kiến nghĩ của mình, ta sẽ nổi nóng liền. Bởi chấp tâm suy nghĩ là mình, nên phiền não phát sinh.

Song chúng ta thử hỏi lại, những suy nghĩ của mình có đúng trăm phần trăm không? Nếu ai cũng nghĩ đúng trăm phần trăm thì bây giờ nhà toàn cả chục tầng, chớ không phải một hai tầng. Vì khi nghĩ đúng khi nghĩ trật, nên làm ăn mới thất bại. Cuộc đời này thất bại nhiều, thành công ít, chứng tỏ con người nghĩ sai nhiều, nghĩ đúng ít. Vậy mà ai cũng cố chấp cái nghĩ của mình là đúng, rồi sanh buồn giận, thương ghét đủ thứ hết.

Lại nữa, những khi ta khởi nghĩ thì thấy có nói, nhưng khi không nghĩ nó ở đâu? Tìm không ra. Không có chỗ, không có hình tướng nên biết nó không thật. Lúc ngồi thiều, ý cứ nghĩ lăng xăng hoài, ta bực mình nói tâm bữa nay xao động quá. Như thế cho cái nghĩ lăng xăng xao động ấy là tâm mình. Phật bảo đây là kẻ mê.

Chúng ta hiện giờ đang cố chấp, đang mê trong sự sai lầm, vì vậy tu rất khó. Chấp thân thật nên gặp điều trái ý nổi giận đùng đùng. Do đó khổ cả ngày. Chừng nào thấy được thân không thật, tâm không thật chúng ta sẽ sống thảnh thơi. Mỗi người đều có quyền thấy khác mình, nên ai làm trái ý ta không giận. Hiểu như vậy là giải thoát nhiều rồi.

Phật thường dạy nếu chúng ta có nghĩ điều gì nên nói: “đây là cái nghĩ của tôi”. Đừng nói cái nghĩ của tôi đúng, thêm chữ “đúng” thì có chuyện. Bởi vì hai cái đúng ngược nhau chúng ta vẫn thấy dễ chịu, có khi còn trao đổi ý kiến để rút kinh nghiệm thêm. Sống trên tinh thần ấy thì hay quá. Nên người sáng suốt muốn tìm chân lý phải thấy rõ như vậy. Tâm không thật biết nói không thật, là người trí, người giác rồi. Thế nên biết ngồi yên tĩnh tu không làm gì hết, không phải vô ích, thật ra việc ấy có lợi ích lớn lao vô cùng.

Vì vậy chúng tôi dạy tu thiền, chỉ dẫn quý vị ngồi yên tịnh nhìn lại xem niệm khởi từ đâu. Nó vừa dấy lên, ta biết vọng tưởng hư dối không theo, cứ thế công phu. Mới nghe thấy đơn giản, không có giá trị gì, nhưng thật ra chúng ta đang làm một việc lớn, đó là phá sai lầm muôn đời của mình. Thấy rõ các tư tưởng sanh diệt liên tục, tạm bợ hư dối, không theo nó thì nó phải chịu thua mình. Đó là pháp an tâm của nhà thiền. Nói pháp nhưng thật ra không có pháp gì cả. Thiền tông chủ trương không có một pháp dạy người, chỉ dùng trí mình soi lại để thấy cái thật cái hư nơi mình. Đó là điều thiết yếu.

(HT. Thích Thanh Từ giảng)